Cấp phép: Các tiêu chí chính để cấp phép là:
- Có nguồn vốn đủ lớn để hoạt động kinh doanh bảo hiểm (tối thiểu 1 tỷ yên, ký quỹ 200 triệu yên);
- Có phương án kinh doanh tốt;
- Đội ngũ lãnh đạo và cán bộ chủ chốt có trình độ và kinh nghiệm về bảo hiểm, không vi phạm pháp luật;
- Phương pháp tính phí và các khoản dự phòng hợp lý.
Quản lý sản phẩm:
- Cục giám sát phê duyệt sản phẩm mới, phê duyệt sự thay đổi các sản phẩm cũ.
- Trong hồ sơ xin phê duyệt sản phẩm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trình: Kế hoạch kinh doanh, tóm tắt về các điều khoản và điều kiện chủ yếu, phương pháp tính phí bảo hiểm và các khoản dự phòng.
- Tiêu chí xem xét phê duyệt sản phẩm là:
+ Phải bảo vệ thích đáng bên mua sản phẩm;
Có thể bạn quan tâm!
- Tăng Cường Giám Sát Hoạt Động Của Doanh Nghiệp Môi Giới Bảo Hiểm
- Mô Hình Giám Sát Theo Định Chế (Institutional)
- Mô Hình Giám Sát Theo Chức Năng (Functional)
- Giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam - 24
- Giám sát thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam - 25
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
+ Không phân biệt đối xử;
+ Không có các quy định trái với đạo đức và ảnh hưởng tới trật tự xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm được quy định đơn giản, rõ ràng.
Giám sát về tài chính và kế toán:
Các công ty bảo hiểm phải nộp báo cáo tài chính hàng tháng, quý, nửa năm và hàng năm (tuỳ loại số liệu) để Cục giám sát phân tích đánh giá tình hình. Cục giám sát chú trọng tới các tiêu chí về lợi nhuận, rủi ro, hệ số biên khả năng thanh toán. Trường hợp hệ số biên khả năng thanh toán xuống dưới 200%, sẽ yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm có biện pháp khắc phục. Trường hợp hệ số biên khả năng thanh toán xuống dưới 0%, doanh nghiệp sẽ phải dừng kinh doanh.
(2) Cục thanh tra
Cục thanh tra có biên chế 430 cán bộ, có 21 đơn vị thanh tra khác nhau, trong
đó các đơn vị thứ 12-15 chịu trách nhiệm thanh tra lĩnh vực bảo hiểm.
Quy trình thanh tra gồm:
Bước 1: Gửi thông báo thanh tra cho đơn vị sẽ được thanh tra
Bước 2: Thu thập thông tin, số liệu, nghiên cứu các vấn đề trọng tâm sẽ thanh tra Bước 3: Triển khai hoạt động thanh tra
Bước 4: Báo cáo kết quả thanh tra Bước 5: Chuẩn bị kết luận thanh tra Bước 6: Công bố kết luận thanh tra
Điểm đáng chú ý là Cục thanh tra chỉ làm các bước 1-4, trong đó báo cáo kết quả thanh tra chỉ đơn thuần nêu các phát hiện của thanh tra. Báo cáo kết quả thanh tra sau đó được chuyển cho Cục giám sát để chuẩn bị kết luận thanh tra. Kết luận thanh
tra sẽ phản ánh ý chí của FSA, trong đó nêu rõ quyết định về các biện pháp khắc phục, các hình thức phạt v.v...(nếu có). Cuối cùng, Cục giám sát công bố kết luận thanh tra.
Quá trình thực hiện các bước 1-4 nói trên, Cục thanh tra có đủ nhân lực để tự triển khai công việc, không phải huy động nhân lực từ Cục giám sát hay từ các đơn vị khác. Hoạt động thanh tra diễn ra tương đối thường xuyên, với khoảng 15-20 doanh nghiệp được thanh tra hàng năm.
Các yêu cầu về quản trị DNBH và kiểm soát nội bộ trong DNBH ràng buộc DNBH nghĩa vụ kiểm tra giám sát đại lý BH của họ. Tuy nhiên, quản trị DNBH ở Nhật Bản có nhiều điểm riêng khác so với chuẩn mực quốc tế. Đó là có mối quan hệ phụ thuộc giữa ban quản trị và hội đồng quản trị (các thành viên không độc lập mà liên quan với nhau). Vai trò kiểm toán của HĐQT rất hạn chế. Nhiều khía cạnh quan trọng trong quản trị công ty được quy định tại Hướng dẫn Giám sát chứ không phải bằng luật pháp. Đạo luật về công ty và IBA cho phép các nhà bảo hiểm Nhật bản được chọn 2 cơ cấu quản trị công ty là cơ cấu Hội đồng tư vấn hoặc Cơ cấu Hội đồng quản lý. Hầu hết các nhà bảo hiểm chọn Hội đồng tư vấn là cơ cấu truyền thống áp dụng tại Nhật Bản. Theo đó, hầu hết các thành viên của Hội đồng tư vấn cũng là các cán bộ điều hành. Còn lại là những thành viên làm bán thời gian. Còn cơ cấu Hội đồng quản lý được thực hiện bằng hội đồng các kiểm toán công ty, phải có từ 3 thành viên này trở lên, chủ yếu từ bên ngoài công ty. Ít nhất có 1 nửa đến từ bên ngoài công ty. Các nhà kiểm toán đến từ bên ngoài là thành viên làm bán thời gian.
Kiểm soát rủi ro và kiểm soát nội bộ đã được tăng cường trong những năm gần đây ở các công ty BH niêm yết trên sàn chứng khoán. Các công ty bảo hiểm niêm yết thì phải đáp ứng yêu cầu liên quan của Ủy ban chứng khoán.
3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Thị trường bảo hiểm Trung Quốc là thị trường lớn thứ 6 trên thế giới và có tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 10-15%. Trung Quốc có 103 công ty bảo hiểm được cấp phép hoạt động, gồm 56 công ty bảo hiểm nhân thọ và 47 công ty bảo hiểm phi nhân thọ. [45]
Thị trường bảo hiểm Trung Quốc có đặc trưng là mức độ tập trung rất cao: 10 công ty bảo hiểm đã chiếm tới gần 90% tổng doanh thu phí bảo hiểm. Một số nguyên tắc giám sát bảo hiểm của IAIS không được áp dụng đầy đủ tại Trung Quốc do các nhà quản lý cho rằng việc áp dụng đầy đủ không phù hợp với giai đoạn hiện nay của thị trường bảo hiểm Trung Quốc hoặc không phù hợp với khung pháp luật chung của Trung Quốc.
Cơ quan quản lý giám sát bảo hiểm Trung Quốc (CIRC) chịu trách nhiệm quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm trước Chính phủ. Cơ quan này có trụ sở chính tại Bắc Kinh và 35 chi nhánh tại địa phương. Bên cạnh việc ban hành các
quy định chính thức, CIRC còn ban hành các chỉ thị, hướng dẫn thực hiện nhằm phát triển thị trường bảo hiểm theo đúng mục tiêu kinh tế và xã hội của Chính phủ. [41]
Các công ty bảo hiểm của Trung quốc được quản lý giám sát khá chặt chẽ với các quy định phù hợp. Nhìn chung, hệ thống giám sát của Trung quốc đã đạt tới trình độ cao về giám sát tuân thủ đối với các công ty bảo hiểm, bao gồm cả việc giám sát trung gian bảo hiểm. Tuy nhiên, các chuyên gia IMF cho rằng cần thiết phải chuyển từ cơ chế quản lý theo quy định sang cơ chế quản lý theo các nguyên tắc, chuẩn mực. Một số quy định cần thiết còn thiếu. Ví dụ, các chuyên gia IMF cho rằng các quy định về những thay đổi trong kiểm soát hay những quy định về giao dịch, chuyển nhượng liên quan đến danh mục ngân quỹ còn chưa có. Việc đặt ra các quy định cũng như hệ thống tổ chức quản lý giám sát rất chặt chẽ, rõ ràng, tuy nhiên CIRC còn gặp những khó khăn do việc áp dụng, thực thi các quy định còn lỏng lẻo, chứa đựng nhiều rủi ro cũng như hạn chế về nhân sự có năng lực tương xứng với chức năng nhiệm vụ, trong khi thị trường bảo hiểm phát triển nhanh, sản phẩm bảo hiểm ngày càng phức tạp hơn. Mối quan hệ giữa CIRC và Ngân hàng nhân dân Trung Hoa (PBC) trong công tác phòng chống rửa tiền cần rõ ràng hơn, trách nhiệm của từng bên phải làm rõ và cơ chế thông tin, báo cáo trở lại cho CIRC về vấn đề này chưa được chấp nhận sẽ gây ra rủi ro mất uy tín cho CIRC.
Cụ thể, về quản trị doanh nghiệp, các quy định tương đối đầy đủ và phù hợp với đặc trưng lãnh thổ rộng lớn, thị trường có quy mô lớn, tăng trưởng nhanh, với số lượng doanh nghiệp bảo hiểm được đánh giá là không lớn. Cơ bản các chuyên gia cho rằng các quy định về quản trị doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo sự phát triển lành mạnh và an toàn của thị trường. Hiện các công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm tổ chức quản trị doanh nghiệp dựa theo các nguyên tắc quy định trong Luật công ty, Luật Bảo hiểm, và Bộ Hướng dẫn các Quan điểm về quy định Cơ cấu quản trị của các công ty bảo hiểm (Guiding Opinions on Regulations of Governance Structure of Insurers) cùng nhiều văn bản hướng dẫn khác. Các quy định chủ yếu về các nguyên tắc quản trị, các cơ cấu kiểm soát, và các yêu cầu về một số ủy ban đặc biệt để giám sát sự tuân thủ, quản trị rủi ro, đầu tư, chế độ đãi ngộ phù hợp. CIRC đánh giá sự tuân thủ thông qua các cuộc phỏng vấn tại chỗ, hoặc qua quá trình xem xét phê chuẩn các điều khoản của hiệp hội (trên cơ sở luật công ty và chất lượng kiểm tra, thanh tra trực tiếp và gián tiếp). CIRC cũng là cơ quan xử lý các vi phạm và đưa ra các thư cảnh báo về rủi ro hoặc thông báo giám sát để khẩn cấp yêu cầu các công ty bảo hiểm cải thiện sự tuân thủ.
4. Kinh nghiệm của Singapore
Về tình hình phát triển thị trường bảo hiểm, tỷ lệ tăng trưởng của ngành bảo hiểm Singapore đã đạt tới một quy mô nhất định trong GDP nhưng vẫn thấp hơn
nhiều so với khu vực ngân hàng. Tổng tài sản nắm giữ bởi các nhà bảo hiểm là 165,5 tỷ Dollar Singapore (47,9% GDP) trong khi tổng tài sản của các ngân hàng thương mại là 1.957,1 tỷ Dollar Singapore hay 566,3% GDP trong năm 2012.[38]. Mức độ thâm nhập của bảo hiểm tại Singapore còn thấp so với các thị trường phát triển (4,3% GDP so với 5,01 % GDP trong nhân thọ và 1,5% GDP so với 3,57% GDP trong phi nhân thọ). Mật độ bảo hiểm trong lĩnh vực phi nhân thọ thấp hơn nhiều so với mật độ bảo hiểm phi nhân thọ của các nước phát triển (810 so với 1543,5 USD). Tính đến cuối năm 2012, có tổng số 164 nhà bảo hiểm hoạt động ở thị trường Singapore. Nước ngoài sở hữu cổ phần tại DNBH và các nhà tái bảo hiểm chủ yếu vận hành dưới hình thức chi nhánh của công ty nước ngoài tại Singapore. [38].
Ủy ban quản lý tiền tệ Singapore (MAS) là cơ quan giám sát tích hợp về tài chính chịu trách nhiệm về lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán, có trách nhiệm rất rộng bao gồm việc hoạch định chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước và theo dõi giám sát sự ổn định về tài chính. MAS chịu trách nhiệm về giám sát thận trọng, giám sát quy tắc thị trường và chống rửa tiền, chống tài trợ của khủng bố. Thêm vào đó MAS còn có các chức năng quản lý dự trữ ngoại hối chính thức và phát triển Singapore thành một trung tâm tài chính quốc tế. Thời gian qua MAS được các chuyên gia IMF đánh giá là đã có nhiều cố gắng để cải thiện chế độ quản lý và tăng cường các thực hành giám sát kể từ Chương trình đánh giá khu vực tài chính (FSAP) bắt đầu từ 2004. [38]. Nhìn chung, các chuyên gia tài chính bảo hiểm quốc tế đều đánh giá là khung khổ quản lý và tiêu chuẩn thực hành giám sát của Singapore đáp ứng hoàn toàn ở mức cao các nguyên tắc cơ bản về bảo hiểm được thừa nhận. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế là Singapore đã trở thành thủ đô về dịch vụ tài chính của khu vực Châu Á - TBD, là một trung tâm tài chính lớn trên thế giới.
Cục Quản lý giám sát bảo hiểm Singapore trực thuộc Uỷ ban quản lý tiền tệ Singapore, được thành lập năm 1977, có chức năng quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh của các DNBH dựa trên nguyên tắc an toàn, thận trọng, bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
Năm 2005 phương thức quản lý dựa trên cơ sở rủi ro bắt đầu được thực thi ở Singapore đã căn cứ vào toàn bộ các rủi ro liên quan mà doanh nghiệp bảo hiểm phải đối mặt. Quản trị doanh nghiệp và các yêu cầu về quản trị rủi ro (như Enterprise Risk Management - ERM) đã được tăng cường đáng kể. MAS đã ban hành và cải thiện khung pháp lý dựa trên cơ sở rủi ro lên trình độ cao (CRAFT) với sự hỗ trợ tích cực của các yêu cầu báo cáo rất rõ ràng. Quỹ bảo vệ chủ hợp đồng được thiết lập với quy mô quỹ ứng trước và phạm vi bảo vệ 100% của trách nhiệm với chủ hợp đồng lên tới những mức xác định. Các quy tắc ứng xử thị trường được tăng cường một cách chắc chắn với sự cố gắng đáng kể của cả MAS cũng như ngành công nghiệp bảo hiểm Singapore.
Năm 2012, Singapore tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu về bảo hiểm trong khu vực. Để đạt được mục tiêu giám sát, tăng cường minh bạch hóa các quy định hiện tại và đảm bảo thống nhất giữa Luật Kinh doanh bảo hiểm và những Luật quản lý dịch vụ tài chính khác, tháng 4 năm 2013, Cơ quan quản lý tiền tệ Singapore (MAS) đã xem xét và sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm để phù hợp với các quy định về giám sát trên toàn cầu và sự phát triển của thị trường kể từ lần sửa đổi cuối cùng vào năm 2004. Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm, MAS còn sửa đổi các quy định về bảo hiểm (Quản trị doanh nghiệp) năm 2005, theo đó, mở rộng các yêu cầu từ doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ lớn trên thị trường đến những doanh nghiệp bảo hiểm và tái bảo hiểm vào tháng 4 năm 2013. Các quy định (về chuyên gia tính toán) năm 2004 cũng được sửa đổi vào tháng 4 năm 2013, bổ sung các quy định về chức năng, nhiệm vụ của chuyên gia tính toán chỉ định và chuyên gia tính toán được công nhận của doanh nghiệp bảo hiểm, và thẩm quyền bổ nhiệm chuyên gia tính toán… Ngoài ra, các nội dung khác trong Luật kinh doanh bảo hiểm và các hướng dẫn thi hành cũng được xem xét, đặc biệt là quy định vốn trên cơ sở rủi ro. Singapore là nước đầu tiên trong khối ASEAN áp dụng phương thức giám sát trên cơ sở rủi ro từ năm 2004. Singapore áp dụng chế độ vốn tối thiểu và vốn trên cơ sở rủi ro. Singapore thiết lập các 9 chỉ tiêu giám sát và cẩm nang giám sát phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa. bao gồm:
Chỉ tiêu về vốn (đánh giá khả năng thanh toán của các doanh nghiệp bảo hiểm):
- Chỉ tiêu tỷ lệ an toàn vốn (CAR) = Nguồn lực tài chính/Tổng tài sản có rủi ro
- Chỉ tiêu khả năng thanh toán quỹ = Nguồn lực tài chính/Tổng tài sản có rủi ro của mỗi quỹ
Chỉ tiêu về tình trạng hoạt động (đánh giá tình trạng hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm)
- Mức giữ lại = Phí bảo hiểm thuần/Tổng phí bảo hiểm
- Chỉ tiêu về thẩm định, đánh giá rủi ro = Kết quả thẩm định, đánh giá rủi ro/ Phí bảo hiểm đã được hưởng
- Tỷ lệ tổn thất phát sinh = Bồi thường đã phát sinh / Phí bảo hiểm đã được hưởng
- Chỉ tiêu về chi phí quản lý = Chi phí quản lý/Phí bảo hiểm đã được hưởng
- Chỉ tiêu về chi phí khai thác = Chi phí khai thác / Phí bảo hiểm đã được hưởng
- Chi tiêu về hoa hồng = Chi phí hoa hồng /Phí bảo hiểm đã được hưởng
- Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) = Lợi nhuận ròng/Bình quân tổng giá trị tài sản
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (ROE) = Lợi nhuận ròng/Vốn chủ sở hữu
Bên cạnh đó còn sử dụng hệ thống chỉ tiêu cảnh báo sớm, bao gồm:
- Giám sát sự thay đổi của Chỉ tiêu Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) được thực hiện qua các tình huống kiểm tra sức chịu đựng của doanh nghiệp (stress testing), ví dụ như tăng vốn chủ sở hữu, mở rộng địa bàn hoạt động,...
- Chỉ tiêu về mức độ biến động vốn = Hệ số biến thiên (CV) của Tỷ lệ an toàn vốn (CAR)
- Tỷ lệ nhượng tái = Phí tái bảo hiểm chuyển đi/Tổng phí bảo hiểm khai thác
- Mức độ tích tụ tái bảo hiểm = Phí tái bảo hiểm nhượng cho riêng mỗi nhà tái bảo hiểm/Tổng phí tái bảo hiểm chuyển đi (để đánh giá mức độ tích tụ rủi ro tái bảo hiểm)
- Chỉ tiêu dự phòng nghiệp vụ = Trách nhiệm theo đơn bảo hiểm/Phí bảo hiểm thuần được ghi nhận (đánh giá sự đầy đủ của quỹ dự phòng, chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp phi nhân thọ).
Một số chỉ tiêu giám sát do công ty bảo hiểm tính toán, còn một số thì do cơ quan quản lý bảo hiểm tính toán. Khi phát hiện các chỉ tiêu vượt quá khung giới hạn hoặc bất thường cơ quan giám sát tiến hành trao đổi với công ty bảo hiểm về lý do của sự biến động và yêu cầu công ty bảo hiểm từng bước khắc phục tình trạng đó. Một số loại hình thanh tra chính bao gồm:
- Thanh tra định kỳ để nắm tình hình và đánh giá công tác kiểm soát nội bộ và quy trình của công ty bảo hiểm;
- Thanh tra chuyên đề để xác định tiêu chuẩn chất lượng, mức độ tuân thủ quy định hoặc độ rủi ro giả định của từng nghiệp vụ/ chức năng nhất định của doanh nghiệp bảo hiểm trên toàn thị trường hoặc theo từng khu vực.
Thời gian thanh tra có thể khác nhau, phụ thuộc vào ảnh hưởng và mức độ rủi ro đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Thông thường, thời gian thanh tra có thể diễn ra từ vài tuần cho đến vài tháng. Các bước chính của một cuộc thanh tra gồm:
+ Lập kế hoạch chuẩn bị thanh tra;
+ Họp với công ty bảo hiểm nhằm thông báo về đề cương nội dung thanh tra;
+ Nắm quy trình kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp bảo hiểm;
+ Chọn mẫu và kiểm tra chứng từ.
+ Đưa ra các nhận định, ý kiến về các vấn đề đã thanh tra.
+ Họp để thống nhất các ý kiến, nhận định đã đưa ra.
+ Ban hành báo cáo thanh tra.
5. Kinh nghiệm của Indonesia
Indonesia là mảnh đất màu mỡ để bảo hiểm phát triển, với kinh tế phát triển
ổn định, dân số đông hơn 230 triệu người. Tuy nhiên tỷ trọng phí bảo hiểm chỉ đạt
1,7% GDP năm 2011. Trong đó, tỷ trọng phí bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đạt 0.7% GDP, rất thấp so với các nước cùng khu vực (Malaysia 1,7%, Thailand 1,8%). Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tăng trưởng đều qua các năm. Tổng doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ năm 2011 đạt 34.400 tỷ IDR tăng 19,5%, tổng số tiền bồi thường: 12.780 tỷ IDR tăng 5.5% [43]. Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ giảm dần trong 5 năm qua, giảm từ 94 doanh nghiệp năm 2007 xuống còn 85 doanh nghiệp năm 2011.
Cơ quan quản lý bảo hiểm của Indonesia trước đây chỉ là một văn phòng quản lý bảo hiểm trực thuộc Bộ tài chính. Với sự thành lập mới đây của Cơ quan quản lý dịch vụ tài chính Indonesia (OtoritasJasaKeuangan - OJK) trong vai trò là cơ quan quản lý dịch vụ tài chính Indonesia, thị trường tài chính Indonesia trong đó có bảo hiểm, đã có một cơ quan quản lý riêng biệt. Chức năng của OJK là hài hòa hoá các quy định tài chính, đưa ra các quy định trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, nâng cao nhận thức của công chúng về bảo hiểm và hỗ trợ phát triển bảo hiểm vi mô.
Phương thức giám sát Indonesia đang áp dụng là phương thức giám sát tuân thủ kết hợp phân tích trên cơ sở rủi ro. Áp dụng cả mô hình vốn tối thiểu và vốn dựa trên rủi ro. Năm 2012 và nửa đầu năm 2013, Indonesia đã cập nhật và sửa đổi các quy định và hướng dẫn để cải thiện năng lực tài chính, minh bạch, chế độ kế toán và trách nhiệm nghề nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm. Các quy định về nâng cao năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm và tái bảo hiểm nhằm đáp ứng các yêu cầu về biên khả năng thanh toán trong khi đó các quy định về quản trị điều hành nhằm cải thiện chất lượng quản lý tại doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm cũng như gia tăng giá trị cho người được bảo hiểm. Thêm vào đó, những hướng dẫn về dự phòng kỹ thuật cho các doanh nghiệp bảo hiểm và tái bảo hiểm cũng được sửa đổi để đảm bảo minh bạch và hiệu quả trong tính toán cũng như phương pháp tính toán. Những quy định khác cũng được xem xét nhằm minh bạch hoá và cải thiện hệ thống kiểm tra, giám sát trong ngành bảo hiểm. Có các quy định về mẫu báo cáo tài chính cho các doanh nghiệp bảo hiểm và tái bảo hiểm.
Qui trình thực hiện giám sát từ xa đang được áp dụng theo qui trình sau:
- OJK có quyền yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ cho việc quản lý, giám sát
- OJK yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các báo cáo tài chính để
lập báo cáo tình hình quản lý, giám sát
- Các giám sát viên sẽ đánh giá các vấn đề sau:
+ Tài sản và công nợ
+ Hoạt động nghiệp vụ (như phương pháp tính toán, đánh giá rủi ro, tái bảo hiểm...)
OJK thiết lập các phương thức cho việc đánh giá xác định giá trị của tài sản, công nợ; quy định đối với hoạt động nghiệp vụ, trong đó bao gồm việc xem xét và phân tích, đánh giá báo cáo kiểm toán và các báo cáo khác.
OJK đưa ra các thủ tục dưới dạng văn bản và/hoặc có các hướng dẫn cụ thể để đảm bảo phương thức quản lý, giám sát được nhất quán và được thực hiện thường xuyên.
Việc quản lý, giám sát từ xa bao gồm việc phân tích đánh giá dựa trên rủi ro đối với các loại rủi ro khác nhau có liên quan tới doanh nghiệp bảo hiểm như việc thẩm định, đánh giá rủi ro, dự phòng, tính thanh khoản, tình hình hoạt động, đạo đức kinh doanh và các rủi ro pháp lý.
Các chỉ tiêu giám sát được sử dụng có 4 chỉ tiêu:
Tài sản được chấp nhận - Tổng công nợ
RBC =
Tỷ lệ đầu tư so với dự =
Biên khả năng thanh toán tối thiểu
Đầu tư + Tiền mặt và Tiền gửi ngân hàng
phòng nghiệp vụ Dự phòng nghiệp vụ + Bồi thường phải trả
Hệ số thanh khoản =
Tài sản năm hiện tại
Công nợ năm hiện tại
Quỹ dữ trữ tối thiểu được tính bằng tối đa của 20% vốn chủ sở hữu tối thiểu theo quy định hoặc tổng (1% phí bảo hiểm ròng + 0,25% phí tái bảo hiểm)
Hệ thống chỉ tiêu cảnh báo sớm: Có 11 chỉ tiêu
Tốc độ tăng trưởng về vốn =
(Vốn chủ sở hữu kỳ này - Vốn chủ sở hữu kỳ trước)
chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu kỳ trước
Tốc độ tăng trưởng = về đầu tư
Chỉ tiêu tài sản có tính thanh khoản trên công nợ =
Chỉ tiêu tổng phí bảo hiểm trên tổng tài sản =
(Đầu tư kỳ này - Đầu tư kỳ trước)
Đầu tư kỳ trước
Tài sản có tính thanh khoản năm hiện tại
Tổng công nợ năm hiện tại Tổng phí bảo hiểm năm hiện tại
Tổng tài sản năm hiện tại