nghỉ phép, lễ, tết trong năm đến toàn thể các đối tượng lao động để người lao động nắm bắt rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong thời gian lao động tại tỉnh. Chế độ nghỉ phép của tỉnh dựa trên điều 73, 74, 75 của Bộ luật lao động ngày 23/06/1994 của Chính phủ. Trong đó với đối tượng lao động là công nhân tại các khu công nghiệp, xí nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước, thì ngày nghỉ phép năm có thể quy đổi ra tiền, tiền công vào ngày nghỉ là 200% và ngày lễ là 300%. Chính sách này được phổ biến rộng rãi và thường xuyên để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động, qua đó tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa người lao động với các doanh nghiệp.
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, năng suất lao động trong các ngành kinh tế của tỉnh Bình Dương có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, thời gian làm việc của hầu hết người lao động vẫn còn cao, thời gian rỗi không tăng nhiều do đặc thù là tham gia vào sản xuất công nghiệp. Qua biểu đồ 2.1, ta có thể thấy rằng năm 2011 có 65,7% lao động làm việc trong khu vực công nghiệp – xây dựng. Điều này cho thấy thời gian rỗi cho du lịch dài ngày là không nhiều. Đến cuối năm 2011, toàn tỉnh có 718.000 công nhân đang làm việc trong 24 khu công nghiệp, trong đó lao động nữ chiếm gần 70%, lao động ngoài tỉnh chiếm khoảng 85%. Đa số công nhân lại có tâm lý là làm việc và tăng ca để kiếm nhiều tiền trang trải cuộc sống hoặc gửi về phụ giúp gia đình, nên không có thời gian rỗi nhiều. Vì lẽ đó, việc nghỉ ngơi, giải trí thường ít kéo dài, loại hình tham quan trong thời gian ngắn, phạm vi gần là một lựa chọn phù hợp cho hầu hết người lao động trong tỉnh.
2.2.2.8. Các nhân tố chính trị
Hòa bình là nhân tố tạo điều kiện cho sự thông suốt trong hoạt động của ngành du lịch. Và ngược lại thông qua du lịch, nhất là du lịch nhân văn, con người được bồi bổ thêm cái nhìn về giá trị của hòa bình. Hòa bình ở đây không chỉ là vấn đề về chính trị mà còn bao hàm cả sự ổn định về các vấn đề dân tộc và tôn giáo
Là một tỉnh có nhiều dân tộc, tôn giáo, tỉ lệ dân nhập cư ngày càng tăng, phát sinh một số vấn đề xã hội do tác động tiêu cực của đô thị hóa nhưng trong giai đoạn
2000 - 2011, Bình Dương luôn giữ vững được an ninh xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút du khách thập phương đến tham quan.
2.2.3. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật
2.2.3.1. Cơ sở hạ tầng
* Ưu điểm
Giao thông của tỉnh Bình Dương khá thuận tiện, có tuyến quốc lộ 13 và quốc lộ 14 xuyên suốt tỉnh, nhiều đường liên tỉnh nối liền các vùng. Về giao thông công cộng, hiện nay tỉnh có 9 tuyến xe buýt hoạt động xuyên suốt tỉnh và các tỉnh lân cận. Ngoài ra, hệ thống đường sông cũng có giá trị giao thông lớn, có khả năng khai thác phục vụ du lịch. Đây là một thế mạnh để mọi tầng lớp du khách có thể tham quan các địa điểm du lịch một cách thuận tiện, dễ dàng với rất nhiều sự lựa chọn.
Song song đó, cùng với quá trình công nghiệp hóa, cơ sở hạ tầng của tỉnh không ngừng được mở rộng và nâng cấp. Ngày 5-6-2007, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành Quyết định số 81/2007/QĐ – TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Bình Dương đến năm 2015 – 2020”. Theo quy hoạch, kết cấu hạ tầng kỹ thuật mà chủ yếu là giao thông phát triển đường bộ theo hướng kết nối với hệ thống quốc lộ hiện đại với sân bay quốc tế và cụm cảng biển Thị Vải – Vũng Tàu và hệ thống hạ tầng kỹ thuật khác. Tập trung phát triển các trục giao thông đường bộ từ Đại lộ Bình Dương đi cửa khẩu Hoa Lư, từ Đại lộ Bình Dương đi Đồng Xoài, từ Đại lộ Bình Dương đi Dầu Tiếng, đường cao tốc Mỹ Phước – Tân Vạn. Ngoài ra, hệ thống Metro (tàu điện ngầm) từ trung tâm TP. HCM sẽ được kết nối đi Thủ Dầu Một.
Như vậy, với quy hoạch này, Bình Dương sẽ hoàn toàn “thay da đổi thịt” trở thành một đô thị hiện đại, giao thông nối kết, thuận lợi. Chính hạ tầng đã góp phần “thổi” một làn gió mới cho du lịch Bình Dương, mang du khách đến với các địa điểm du lịch nhanh chóng và thuận tiện hơn, tiết kiệm thời gian di chuyển đồng thời đảm bảo sức khỏe để du khách có thể tận hưởng hết những điều thú vị tại các điểm du lịch.
* Hạn chế
Hệ thống đường giao thông vào tận nơi của một số điểm du lịch còn không ít hạn chế, gây khó khăn cho việc khai thác và phát triển du lịch. Tại nhà cổ Trần Công Vàng, con đường vào ngôi nhà cổ hiện nay vẫn còn tồn tại cảnh bán buôn chen lấn của các tiểu thương gây không ít khó khăn cho hoạt động du lịch. Tại các làng nghề, hệ thống đường chưa được đầu tư đúng mức, mặt đường chưa được tráng nhựa, lồi lỏm khó khi. Bên cạnh đó, khu sản xuất sản phẩm nằm một nơi trong khi phòng trưng bày các sản phẩm hoàn chỉnh lại nằm một nẻo. Trong trường hợp nếu như có du khách nào muốn mua sản phẩm mình ưng ý thì buộc phải đi bộ một quãng đường khá xa.
2.2.3.2. Cơ sở vật chất kĩ thuật
Trong những năm gần đây, do nhu cầu phát triển của ngành du lịch, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch của tỉnh đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, do chưa có quy hoạch đồng bộ nên hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật chưa thật sự hoàn chỉnh để giúp khai thác tối đa các tài nguyên du lịch của tỉnh.
* Các cơ sở phục vụ lưu trú
Ưu điểm
Theo báo cáo “Công tác quản lý nhà nước về du lịch ước thực hiện năm 2011 phương hướng nhiệm vụ năm 2012” của Sở VHTT&DL tỉnh Bình Dương, đến 31/10/2011, các đơn vị động kinh doanh khách sạn – nhà nghỉ chủ yếu theo các loại hình doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có loại hình hộ kinh doanh cá thể, với ngành nghề kinh doanh: nhà nghỉ trọ, nhà nghỉ bình dân, lưu trú trong thời gian ngắn... Đến cuối tháng 10/2011 trên địa bàn tỉnh có 169 cơ sở (hoạt động theo loại hình hộ kinh doanh cá thể), với 2.281 phòng, với số vốn đăng ký khoảng 63,9 tỷ đồng.
Bảng 2.5: Tình hình phát triển cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú Bình Dương giai đoạn 2007 – 2011
2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | |
Số khách sạn – nhà nghỉ | 95 | 120 | 150 | 200 | 227 |
Số phòng | 2.722 | 3.044 | 3.674 | 5.158 | 6.153 |
Tổng vốn đăng kí (tỉ đồng) | 703 | 720,2 | 820 | 954 | 1.119,3 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Vấn Đề Về Du Lịch Bền Vững
- Hiện Trạng Khai Thác Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Ở Bình Dương
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Phát Triển Du Lịch Tỉnh Bình Dương
- Số Khách Du Lịch Đến Tham Quan Nhà Tù Phú Lợi Giai Đoạn 2009 - 2011
- Hiện Trạng Khai Thác Và Bảo Tồn Tài Nguyên Du Lịch Các Điểm Tôn Giáo Và Lễ Hội
- Hiện Trạng Khai Thác Và Bảo Tồn Tài Nguyên Du Lịch Ở Các Điểm Danh Lam, Thắng Cảnh
Xem toàn bộ 158 trang tài liệu này.
(Nguồn: Sở VHTT&DL Bình Dương) Để kiểm soát chất lượng dịch vụ lưu trú phục vụ du lịch, Sở VHTT&DL cũng thường xuyên tiến hành thẩm định phân loại xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch theo Bộ
Tiêu chuẩn Quốc gia do Bộ Khoa học - Công nghệ ban hành.
Hạn chế
Các hộ kinh doanh này có cơ sở vật chất trang thiết bị, tiện nghi có chất lượng thấp, đơn giản chưa đảm bảo các điều kiện theo quy định để phục vụ khách đến lưu trú dài ngày, hầu hết đều phục vụ lưu trú trong thời gian ngắn. Số lượng cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú trên cơ bản đáp ứng được nhu cầu lưu trú của du khách. Tuy nhiên, do chưa được đào tạo nhiều trong công tác quản lý, chăm sóc khách hàng và kinh doanh chuyên nghiệp nên công suất sử dụng phòng của các khách sạn, nhà nghỉ trên địa bàn tỉnh còn hạn chế, bình quân khoảng 55% (trong đó các khách sạn xếp hạng 3 sao, công suất sử dụng phòng đạt 65-70%, các khách sạn xếp hạng 1 đến 2 sao công suất sử phòng khoảng 55- 60%, còn lại các nhà nghỉ công suất sử dụng phòng bình quân khoảng 50%).
Hầu hết các cơ sở lưu trú nằm ở Thành phố Thủ dầu một, Thuận An, Dĩ An – nơi có tài nguyên du lịch nhân văn phong phú và hoạt động du lịch phát triển mạnh mẽ.
* Các cơ sở phục vụ ăn uống
So với các cơ sở phục vụ lưu trú, cơ sở phục vụ ăn uống rất khó thống kê vì quy mô kinh doanh rất khác nhau và không chịu sự quản lý trực tiếp của Sở VHTT&DL tỉnh. Song với sự phát triển công nghiệp nhanh và mạnh của tỉnh như
hiện nay, mạng lưới các cơ sở phục vụ ăn uống cũng ngày càng dày đặc và phong phú về loại hình, quy mô. Trong số đó, loại hình kinh doanh nhà hàng cũng bước đầu có tín hiệu lạc quan kịp thời phục vụ nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của du khách.
Về phân bố, cũng như các cơ sở phục vụ lưu trú, các nhà hàng chủ yếu tập trung ở những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển cao và sự phát triển du lịch mạnh mẽ.
2.3. Hiện trạng khai thác tài nguyên du lịch nhân văn ở tỉnh Bình Dương
2.3.1. Hiện trạng khai thác các điểm di tích lịch sử
2.3.1.1. Địa đạo Tam giác sắt Tây Nam Bến Cát
* Khái quát về Địa đạo Tam giác sắt Tây Nam Bến Cát
Địa đạo Tam giác sắt Tây nam Bến Cát (gọi tắt là Địa đạo Tam giác sắt) nằm trên vùng đất 3 xã: An Điền, An Tây, Phú An thuộc khu vực phía Tây nam huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, cách trung tâm Thành phố Thủ dầu một 15 km về phía nam. Địa đạo được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia ngày 18/3/1996, có tổng diện tích 23ha.
Tên “Tam giác sắt” đã trở nên quen thuộc với nhiều người trong trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược trước đây. Ngày nay, nhiều người hiểu “Tam giác sắt” rất khác nhau. Có người cho rằng “Tam giác sắt” là vùng Tây Nam Bến Cát, cũng có người cho rằng nó bao gồm phần đất Tây nam Bến Cát – Dầu Tiếng – Long Nguyên. Rộng hơn nữa, có người cho rằng nó kéo dài từ Long Nguyên (Bến Cát) – Trảng Bàng (Tây Ninh) và Củ Chi (thành phố Hồ Chí Minh). Tất cả đều đúng, vì địa danh “Tam giác sắt” cùng phát triển theo bước phát triển của cuộc chiến tranh. Duy chỉ có một điều ít ai nghĩ tới là nguồn gốc ban đầu của “Tam giác sắt” lại chính là địa bàn của 3 xã: An Điền, An Tây, Phú An (3 xã Tây Nam của huyện Bến Cát , tỉnh Bình Dương).
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước đây, vùng đất 3 xã Tây Nam Bến Cát sớm được nổi danh với chiến khu An Thành. Vào năm 1948,
hệ thống địa đạo đầu tiên xuất hiện từ vùng đất này. Sau đó năm 1960, du kích Củ Chi đến học tập kinh nghiệm và xây dựng hệ thống địa đạo ở địa phương mình.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, kẻ thù đã nhiều lần càn đi xát lại, nhưng chúng không khuất phục nổi lòng dân ở đây. Sau những thất bại liên tiếp, kẻ thù đành bất lực, chúng phải gọi vùng này là vùng “Tam giác sắt”.
* Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch
Được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1996, tức là trước khi tái lập tỉnh 1 năm, nhưng đến nay Địa đạo Tam giác sắt vẫn là một điểm tài nguyên, chưa được khai thác hiệu quả vào phục vụ du lịch.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh, Địa đạo Tam giác sắt luôn được giới thiệu một cách chi tiết về lịch sử, tự hào về truyền thống. Song về khả năng khai thác du lịch mãi chưa được đánh thức tương xứng với tiềm năng.
Khách tham quan đến đây chủ yếu là các đoàn du lịch công vụ của cơ quan nhà nước, dưới hình thức tham quan bồi dưỡng về chính trị. Tính đến năm 2011, Địa đạo Tam giác sắt vẫn là một điểm tài nguyên về di tích lịch sử, chưa trở thành điểm du lịch, chưa có ban quản lý và định hướng kinh doanh cụ thể. Do vậy, số liệu về số khách du lịch và doanh thu du lịch gần như không có.
2.3.1.2. Núi Cậu - Lòng Hồ Dầu Tiếng
* Khái quát về Núi Cậu - Lòng Hồ Dầu Tiếng
Núi Cậu – Lòng Hồ Dầu Tiếng thuộc ấp Tha La, xã Định Thành, huyện Dầu Tiếng, cách trung tâm thị trấn Dầu Tiếng 7km. Núi Cậu – Lòng Hồ Dầu Tiếng là di tích danh thắng đẹp hàng đầu của tỉnh Bình Dương, đã được công nhận di tích danh thắng cấp tỉnh, ngày 17/8/2007.
Quần thể Núi Cậu có tổng diện tích hơn 1600 ha, gồm 21 ngọn (7 ngọn lớn và 14 ngọn nhỏ), ngọn núi có dạng hình chữ U. Ngọn núi cao nhất là núi Cửa Ông cao 295m, núi Ông cao 285m, núi Tha La cao 198m và núi thấp nhất cao 63m là núi Chúa. Bốn ngọn núi này gắn liền với nhau tạo thành một dãy núi nhấp nhô kéo dài nằm chếch về hướng Bắc – Đông Bắc và Nam - Tây Nam.
Trên đỉnh núi cũng có một ngôi miếu thờ “Cậu Bảy” và nhiều tảng đá tạo thành những hình tượng vô cùng hấp dẫn. Dưới chân núi có ngôi chùa Thái Sơn do hoà thượng Thích Đạt Phẩm (thế danh: Đinh Văn Trên) (Thầy sáu) xây dựng vào năm 1988, tổng diện tích trên 5 hecta.Trong kháng chiến vùng núi hiền hòa này đã che chở cho hòa thượng Đạt Phẩm và các đồng chí hoạt động cánh mạng.
Lòng hồ là một công trình thủy lợi với diện tích rộng trên 27000 hecta và 1,5 tỷ m3 nước phục vụ nông nghiệp. Những nhà quản lí công trình, những kỹ sư và công nhân ngành thủy lợi đã đầu tư trí tuệ, sức lực và lòng quyết tâm đạt được mục tiêu hồ có khả năng tưới tiêu cho hơn hàng trăm ngàn hecta đất ruộng và hoa màu của một vùng rộng lớn từ Tây Ninh đến Bình Dương qua Long An về thành phố Hồ Chí Minh.
* Hiện trạng khai thác và kinh doanh du lịch
Được công nhận di tích danh thắng cấp tỉnh từ năm 2007, Núi Cậu – Lòng hồ Dầu Tiếng đã không ngừng thu hút khách du lịch gần xa. Tuy nhiên, hiện nay tiềm năng của khu du lịch này vẫn chưa được khai thác triệt để, nên chưa có sức hút mạnh mẽ đối với du khách nội địa và quốc tế. Trong giai đoạn 2008 – 2011, số lượt khách đến tham quan chùa Thái Sơn trên núi Cậu hàng năm luôn đạt mức vài chục nghìn lượt người, chủ yếu từ các tỉnh, thành lân cận như Long An, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Phước, một số tỉnh miền Tây Nam Bộ và Tp. Hồ Chí Minh.
Hàng năm, vào các ngày rằm lớn (tháng giêng, tháng bảy, tháng mười), đặc biệt là các ngày giỗ của Cậu (mùng 4, 5, 6 tháng 5 âm lịch) và các ngày lễ “Mẹ” (ngày 13, 14, 15 tháng tám âm lịch), hàng nghìn lượt người đến viếng chùa để cầu an và nghỉ ngơi, tham quan.
Theo Phòng Văn hoá và Thông tin huyện Dầu Tiếng, chỉ tính riêng trong dịp Tết 2011, điểm du lịch này đã thu hút hơn 40.000 nghìn lượt khách tham quan, doanh thu gần 150 triệu đồng.
Lòng hồ Dầu Tiếng thuộc phần giáp ranh của 2 tỉnh Bình Dương và Tây Ninh nên công tác thống kê có phần gặp khó khăn. Khách đến tham quan từ hướng Bình Dương sẽ không bỏ qua cảnh sắc hùng vĩ của Lòng hồ Dầu Tiếng, khách đến tham
quan từ hướng Tây Ninh sẽ không ngại đường xa để đến dâng hương chùa Thái Sơn. Do vậy, về số khách tham quan và doanh thu du lịch của khu di tích – danh thắng này chỉ có tính tương đối trong một giới hạn nhất định.
2.3.1.3. Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh
* Khái quát về Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh
Di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh nằm ở địa điểm thuộc ấp 1 xã Minh Tân (trước là xã Minh Thạnh) huyện Dầu Tiếng. Di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia ngày 11/5/2010.
Di tích mặc dù là một cơ quan tạm thời (trong thời gian từ 26/4-30/4/1975), nhưng đã thể hiện được vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt trong chiến lược chiến tranh của thời đại mới, mà trực tiếp là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Sở dĩ gọi là di tích Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Mình là vì Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập ở căn cứ quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại ấp Tà Thiết Krom – Lộc Thành - Lộc Ninh, Sông Bé.
Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh có tổng diện tích là 6182.96m2 ở vị trí tọa độ 11023’32” độ vĩ Bắc, 106030’40” độ kinh đông. Vì di tích là một cơ quan tạm thời nên các lán trại, hầm hào tại đây chủ yếu được làm bằng vật liệu là gỗ có sẵn, sau thời gian dài mưa nắng phá hủy chỉ còn lại những vết tích khá mờ nhạt, chỉ có hố bom nơi đồng chí Văn Tiến Dũng lấy nước để sinh hoạt là còn khá nguyên vẹn. Hiện nay, cảnh quan khu vực này đã thay đổi rất nhiều so với trước, rừng cao su bạt ngàn bao quanh khu vực di tích. Những dấu vết còn lại như:
hố bom lấy nước sinh họat, dấu vết các hầm hào cũng đã mờ, phải rất khó khăn mới tìm được những dấu vết cũ do cỏ cây che khuất.
Năm 1987 đại tướng Văn Tiến Dũng cùng một số đồng chí cán bộ miền về thăm và xác định vị trí trên cơ sở những dấu tích còn lại. Sau đó huyện đội Bình Long và nhân dân xã Minh Thạnh đã xây dựng bia làm mốc đánh dấu tại nơi đây. Bia được làm bằng chất liệu bê tông cốt thép, có độ cao 3m, rộng 2,5m, trên bia có gắn ngôi sao, dưới ngôi sao có ghi dòng chữ Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, 30