trong một số bài viết của một số tác giả như: TS. Bùi Đăng Hiếu: Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối; Vũ Mạnh Hùng: Một số ý kiến về đường lối giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng mua bán nhà; Hoàng Thị Thanh: Quy định "Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân theo các quy định về hình thức"; Phan Tấn Phát: Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức; Nguyễn Ngọc Điện: Hoàn thiện chế độ pháp lý về xác lập hợp đồng; TS. Ngô Huy Cương: Những bất cập lớn trong các quy định về hợp đồng và những định hướng cải cách; Bùi Thị Thanh Hằng: Chế định hợp đồng dân sự trước yêu cầu sửa đổi bổ sung Bộ luật dân sự 2005; Nguyễn Văn Cường, Luận án tiến sĩ: Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu…
Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu các công trình có liên quan thì chúng tôi thấy rằng các công trình này chỉ nghiên cứu các quy định của Bộ luật dân sự 1995, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005. Quy định về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 122, Bộ luật dân sự năm 2005 có những điểm khác về nội dung và tinh thần so với Bộ luật dân sự năm 1995, nhất là việc áp dụng để giải quyết những tranh chấp trong thực tiễn.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự" theo quy định của pháp luật hiện hành của tác giả vẫn là việc làm cần thiết, có ý nghĩa và không bị trùng lắp với các công trình đã được công bố.
3. Phương pháp luận - phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu như đã nêu trên, luận văn sẽ dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu, tìm hiểu mối liên hệ của vấn đề nghiên cứu đối với các hiện tượng xã hội khác nằm trong mối liên hệ biện chứng và lịch
sử. Đồng thời tác giả cũng sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như: phân tích, tổng hợp, logic, thống kê, so sánh để làm rõ bản chất cũng như thấy được sự phát triển của chế định này.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm pháp lý về giao dịch dân sự, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự, thực tế áp dụng quy định pháp luật về điều kiện có hiệu của hợp đồng dân sự. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, đảm bảo tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp, giảm "độ chênh" giữa pháp luật và đời sống thực tiễn, làm cho pháp luật dân sự không chỉ đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự tham gia giao dịch dân sự mà còn thực sự là công cụ pháp lý thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế xã hội.
Với mục đích nêu trên, việc nghiên cứu, hoàn thiện luận văn này nhằm hoàn thành các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu pháp luật thực định Việt Nam quy định riêng về hợp đồng dân sự và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật.
Có thể bạn quan tâm!
- Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự - 1
- Đặc Điểm Của Hợp Đồng Dân Sự Trong Bộ Luật Dân Sự
- Vấn Đề Lý Luận Về Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Dân Sự
- Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự - 5
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
- Phân tích và lý giải nhằm làm rõ cơ sở pháp luật và thực tiễn của hợp đồng cũng như các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự.
- Nghiên cứu pháp luật thực định Việt Nam quy định về hợp đồng dân sự và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật dân sự, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự (theo nghĩa hẹp) về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự, (không nghiên cứu tổng thể
chung về giao dịch dân sự) và thực tiễn áp dụng các quy định đó; phân tích thực trạng áp dụng tại ngành Tòa án nhân dân thông qua các bản án dân sự của Tòa án giải quyết các việc liên quan đến hợp đồng, từ đó làm sáng tỏ thêm lý luận về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự.
Qua nội dung của đề tài tác giả sẽ cố gắng đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật còn chưa đầy đủ hoặc còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dụng của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của điều kiện có hiệu lực hợp đồng dân sự và hậu quả pháp lý của nó.
Chương 2: Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của Pháp luật dân sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và phương hướng hoàn thiện.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NÓ
1.1. HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÀ NHỮNG ĐẶC THÙ CỦA NÓ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1.1.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc điều chỉnh hợp đồng bằng pháp luật
Hợp đồng là một trong những chế định pháp lý có bề dầy lịch sử. Ngay từ khi xã hội loài người có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa, thì hợp đồng đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản. Hợp đồng là hình thức pháp lý thích hợp và có hiệu quả trong việc bảo đảm sự vận động theo quy luật hàng hóa - tiền tệ. Ngày nay phần lớn các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng các hợp đồng. Điều này xuất phát từ việc pháp luật hiện đại thừa nhận quyền bình đẳng của con người trước pháp luật và quyền tự do cá nhân. Vai trò và vị trí của chế định hợp đồng ngày càng được khẳng định trong mọi hệ thống pháp luật. "Kinh tế càng phát triển, xã hội càng văn minh thì chế định hợp đồng càng được coi trọng, càng được hoàn thiện" [24, tr. 34].
Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, pháp luật về hợp đồng trong Bộ luật dân sự, Luật Thương mại giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Vai trò của chế định hợp đồng là quy định làm căn cứ để giải thích rõ nội dung của các phần mà các bên thể hiện chưa rõ, hay bổ sung những phần mà các bên chưa xác định trong hợp đồng được các bên giao kết. Đồng thời các quy định về hợp đồng còn có chức năng hướng dẫn cho các thủ thể tham gia quan hệ hợp đồng biết được quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ đó và những nội dung cơ bản mà các bên cần thỏa thuận trong các hình thức hợp
đồng cụ thể. Vai trò trung tâm của hợp đồng trong hệ thống pháp luật không phải ngẫu nhiên, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, nơi mà mọi dịch vụ, hàng hóa... phải được tự do chuyển dịch thì vai trò của chế định hợp đồng được thể hiện lớn hơn, bởi lẽ trong các quan hệ hợp đồng thì ý chí của các bên mang tính quyết định. Về nguyên tắc, pháp luật tôn trọng ý chí của các bên và chỉ can thiệp trong các trường hợp mà ở đó cần có sự giới hạn của pháp luật. Ở hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới, hợp đồng được thừa nhận về mặt pháp lý khi đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, hợp đồng phải thể hiện được sự tự do ý chí của các bên tham gia ký kết.
Hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xã hội. Trong đời sống xã hội để thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt tiêu dùng hoặc trong sản xuất, kinh doanh thì dường như mọi hoạt động của con người đều hướng tới việc ký kết hợp đồng. Nói cách khác hợp đồng là công cụ pháp lý để các chủ thể có thể thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của mình trong sản xuất cũng như trong sinh hoạt tiêu dùng. Hợp đồng thể hiện sự bình đẳng giữa những người tham gia hợp đồng và thừa nhận quyền tự do cam kết, thỏa thuận của họ.
Hợp đồng luôn gắn liền với sự tự do thể hiện ý chí của các chủ thể. Tự do ý chí trong giao kết hợp đồng được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở Pháp từ thế kỷ XVIII. Lúc đầu nó được coi là nguyên tắc độc tôn ý chí. Nguyên tắc này cho phép các cá nhân được tự do quyết định trong việc giao kết hợp đồng, khẳng định quyền của mỗi cá nhân khi tham gia vào giao dịch và chỉ phụ thuộc vào chính họ mà không phụ thuộc vào pháp luật. Ý chí của họ được thể hiện một cách độc lập và xuất phát từ lợi ích cá nhân. Quan niệm này xuất phát từ việc cho rằng nếu các cá nhân tự do giao kết thì sẽ đảm bảo được sự công bằng trong quan hệ hợp đồng. Nguyên tắc tự do hiệnết hợp đồng đưa đến một hệ quả là hợp đồng khi được ký kết thì có giá trị bắt buộc thực hiện. Việc thay đổi hợp đồng cũng chỉ có thể thực hiện bởi sự thỏa thuận
của các chủ thể hợp đồng và không ai có quyền can thiệp vào quan hệ của họ cũng như không có quyền làm thay đổi ý chí của họ.
Tuy nhiên, thực tiễn phát triển của hợp đồng cho thấy quan điểm tự do một cách tuyệt đối như trên đã không tồn tại được lâu và càng ngày đã bộc lộ sự bất bình đẳng trong giao kết hợp đồng. Trên thực tế, ý nghĩa của nguyên tắc này chỉ mang tình hình thức mà thôi. Khi nói đến hợp đồng ta hiểu các chủ thể trong đó bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Thế nhưng, thực tiễn cho thấy các bên ký kết hợp đồng thường không ngang bằng nhau, mà có một bên mạnh hơn và một bên yếu hơn về kinh tế. Do đó, trên thực tế không có sự tự do kí kết hợp đồng, mà thường là một bên phải phụ thuộc vào ý chí của bên kia chứ không thể hiện ý chí chung của các bên bằng việc thông qua hợp đồng đã được thảo sẵn của một bên mạnh hơn về kinh tế. Như vậy, hợp đồng đã không còn mang đúng ý nghĩa của nó mà là phương tiện pháp lý để một bên mạnh hơn áp đặt bên yếu hơn về kinh tế. Có không ít trường hợp trên thực tế hợp đồng không còn thuần túy là kết quả của sự thể hiện ý chí chung của các bên nữa mà trở thành hình thức biểu hiện của sự bất bình đẳng giữa các bên với nhau. Chính vì lẽ đó đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước đến các quan hệ này. Công cụ can thiệp của Nhà nước sử dụng là pháp luật và chế định hợp đồng vì thế giữ một vị trí rất quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Ở Việt Nam, sự can thiệp của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của bên yếu hơn trong quan hệ hợp đồng đã được thể hiện ngay ở Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950: "Khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể coi là vô hiệu" (Điều 13 Sắc lệnh 97/SL). Ngày nay để bảo vệ quyền lợi cho "bên yếu thế" khoản 8, Điều 409, Bộ luật dân sự quy định về giải thích hợp đồng dân sự như sau: "Trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng những nội dung bất lợi cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế".
Để bảo vệ quyền lợi của bên yếu hơn trong quan hệ hợp đồng, lý thuyết về hợp đồng của một số nước đã đưa ra khái niệm lạm dụng, ngay tình và công bằng. Điển hình là pháp luật của các nước Pháp, Đức, Nhật, Việt Nam... đã ghi nhận nguyên tắc này trong Bộ luật dân sự của mình.
Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi về quan điểm đề cao lợi ích cá nhân sang lợi ích xã hội đã làm cho quan điểm về các nguyên tắc này thay đổi.
Nguyên tắc ngay tình được áp dụng nhằm làm giảm nhẹ hiệu lực bắt buộc của hợp đồng. Thực ra rất khó để định nghĩa thế nào là ngay tình. Đầu tiên, người ta nhìn nhận ngay tình như nghĩa vụ trung thực, nghĩa là người có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện hợp đồng một cách trung thực, còn đối với người có quyền thì không được cản trở người có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. Dần dần, qua thực tiễn người ta cho rằng nếu chỉ hiểu ngay tình là trung thực thì chưa đủ và khái niệm ngay tình còn được hiểu là nghĩa vụ hợp tác giữa các bên. Nghĩa vụ hợp tác giữa các bên thể hiện ở việc các bên phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho nhau để thực hiện hợp đồng. Nguyên tắc ngay tình không chỉ được áp dụng trong quá trình thực hiện hợp đồng mà còn được áp dụng trong cả quá trình hình thành hợp đồng. Nguyên tắc ngay tình không chỉ nhằm bảo vệ bên yếu trong hợp đồng mà còn nhằm lập lại sự bình đẳng giữa các bên trong hợp đồng.
Khái niệm lạm dụng được hình thành ở Pháp vào những năm 70. Xuất phát từ sự mất cân đối trong hợp đồng có nguyên nhân từ việc một bên là những thương gia đơn phương soạn thảo hợp đồng và đối tác thường là những người tiêu dùng phải tham gia hợp đồng mà không có sự thể hiện ý chí chung hoặc thỏa thuận các điều khoản cụ thể về nội dung. Lúc đó nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng và hủy bỏ các điều khoản lạm dụng và nhằm bảo vệ bên yếu hơn trong hợp đồng mà các nhà lập pháp đã đưa vào luật khái niệm lạm dụng. Có hai tiêu chí xác định có sự lạm dụng là sự lạm dụng thế mạnh kinh tế để áp đặt các điều khoản của hợp đồng và sự lạm dụng đem lại lợi ích thái quá cho một bên chủ thể. Dù bằng cách này hay cách khác thì chế định
hợp đồng ở mỗi quốc gia khác nhau đều hướng tới việc tạo ra sự bình đẳng có thể có được giữa các bên giao kết hợp đồng.
Thứ hai, hợp đồng phải là sự tập hợp những cam kết được pháp luật thừa nhận, ủng hộ và đứng ra bảo vệ.
Chế định hợp đồng luôn tôn trọng sự tự do của các bên giao kết, song sự tự do đó phải giới hạn trong khuôn khổ pháp luật. Nói cách khác, pháp luật chỉ bảo vệ các cam kết không xâm hại đến trật tự pháp luật, trật tự công cộng. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong quan hệ dân sự là tôn trọng quyền tự do ý chí của mọi cá nhân và các chủ thể khác trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ của mình, pháp luật của các nước quy định rằng các chủ thể được hoàn toàn tự do giao kết hợp đồng, miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc hình thành các hạn chế của nguyên tắc tự do trong kí kết hợp đồng xuất phát từ quan điểm bảo vệ trật tự và lợi ích công cộng. Vì vậy, pháp luật sẽ bảo vệ quyền và lợi ích của các bên kí kết hợp đồng, song các quyền và lợi ích này không được xâm hại đến trật tự và lợi ích công cộng.
Thứ ba, chế định hợp đồng mang tính bắt buộc song cũng hết sức linh hoạt, uyển chuyển. Điều này không dễ dàng đạt được nếu như các quy định pháp luật không được xây dựng theo dạng "mềm", tức là xác định các nguyên tắc cơ bản và coi các cam kết trong hợp đồng không đơn thuần là các chứng cứ. Vấn đề này, hiện đang có hai xu hướng luật trái ngược nhau. Một là, xu hướng đơn giản hóa các quy tắc, giảm bớt số lượng và sự phức tạp của những điều luật mang tính chung và có kết cấu mạch lạc hơn, hợp lý hơn, dễ hiểu hơn. Hai là, xu hướng làm cho luật phong phú hơn bằng nhiều chi tiết rõ ràng. Pháp luật về hợp đồng của các nước theo hệ thống luật án lệ được xây dựng theo hướng hai. Do sử dụng án lệ nên luật pháp của các nước này dễ dàng thay đổi để phù hợp với thực tiễn. Nói cách khác, nó mang tính linh hoạt và cập nhật. Pháp luật về hợp đồng của các nước theo hệ thống pháp luật văn bản tương đối ổn định và mang tính ràng buộc cao. Tuy nhiên, do thủ tục ban