Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Ngành Dịch Vụ.


Hệ thống trọng tài quốc tế : Nếu được tổ chức tốt, hoạt động hiệu quả thì trọng tài quốc tế đóng vai trò là người đem lại sự công bằng cho các doanh nghiệp.

Hoạt động xúc tiến đầu tư : Đây là hoạt động cần thiết nhằm đẩy nhanh tốc độ thu hút FDI vào trong nước. Hình thức của hoạt động xúc tiến đầu tư rất đa dạng, phong phú và với mỗi địa phương khác nhau cũng khác nhau.

5. Tác động của FDI

5.1 Đối với nước đầu tư

5.1.1 Tác động tích vực

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư: Phần lớn các nước này là các nước công nghiệp phát triển và hiện nay là một số các nước công nghiệp mới NICs. Ở những nước này, trình độ phát triển đã đạt tới mức khá cao làm cho các nhân tố sản xuất theo chiều rộng ngày càng mất đi ý nghĩa ban đầu kèm theo là hiện tượng thừa tương đối nguồn vốn trong nước. Bằng cách đầu tư ra nước ngoài họ đã sử dụng được những lợi thế của nước tiếp nhận đầu tư để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn để có thể khắc phục được tình trạng tỷ suất lợi nhuận đang có xu hướng giảm dần.

Kéo dài vòng đời sản phẩm: Theo thuyết chu kỳ sống của sản phẩm, thông qua FDI, các nước chủ đầu tư đã di chuyển một bộ phận sản xuất công nghiệp phần lớn là máy móc ở giai đoạn lão hoá hoặc có nguy cơ bị khấu hao vô hình nhanh (trong xu hướng phát triển và đổi mới công nghệ, sản phẩm ngày càng rút ngắn) sang các nước kém phát triển hơn để tiếp tục sử dụng, kéo dài thêm chu kỳ sống của sản phẩm, hoặc để mau khấu hao, cũng như để tăng sản xuất tiêu thụ, giúp thu hồi vốn và tăng thêm lợi nhuận.

Khai thác nguồn nguyên liệu ở nước tiếp nhận đầu tư: FDI sẽ tạo cơ hội cho các nước này mở rộng và ổn định thị trường cung cấp nguồn nguyên liệu với giá khống chế thông qua đầu tư vào các ngành, khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước tiếp nhận đầu tư là các nước chậm và đang phát triển.

Tạo thế và lực trên trường quốc tế: FDI giúp các nước chủ đầu tư tăng thêm sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.


Thông qua xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài (nhất là các địa bàn có giá trị “đầu cầu” để thâm nhập, mở rộng thị trường có triển vọng), các nước chủ đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước, cũng như có thể thông qua ảnh hưởng về kinh tế để tác động chi phối đời sống chính trị nước chủ nhà, có lợi cho nước đầu tư.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội - Thực trạng và giải pháp - 3

5.1.2 Tác động tiêu cực

FDI gây nên nạn thất nghiệp ở nước chủ đầu tư: FDI nhiều quá khiến cho nguồn vốn đầu tư cho sản xuất trong nước giảm. Do chạy theo lợi nhuận độc quyền, các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ mặc nạn thất nghiệp ở nước phát triển để đầu tư vào những nước có chi phí thấp, lợi nhuận cao.

Rủi ro công nghệ: Các doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh, bắt chước, học tập, lao động chuyển sang làm cho doanh nghiệp khác hay lập công ty riêng đều mang đến rủi ro công nghệ cho doanh nghiệp.

Rủi ro chính trị: Do luật pháp mỗi nước khác nhau, tình hình chính trị mỗi quốc gia đều có đặc điểm riêng nên dễ dẫn đén những rủi ro chính trị.

Hiện tượng chảy máu chất xám : Cùng với việc chuyển giao công nghệ là hiện tượng chảy máu chất xám, các chuyên gia trong nước theo các dự án ở nước ngoài để hướng dẫn, chỉ đạo, phụ trách kỹ thuật cho nước nhận đầu tư.

5.2. Đối với nước nhận đầu tư

5.2.1 Tác động tích cực

FDI bổ sung nguồn vốn cho nước chủ nhà phát triển kinh tế mà không làm tăng gánh nặng nợ nần: Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, các nước đang phát triển đều bị thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội bộ thấp hoặc không có tích luỹ. Điều này đã hạn chế đến quy mô đầu tư và đổi mới công nghệ, trang thiết bị kĩ thuật ở các nước này. FDI là loại hình đầu tư không quy định mức vốn đầu tư tối đa mà chỉ quy định mức đầu tư tối thiếu, do vậy cho phép nước sở tại khai thác được nguồn vốn bên ngoài, làm tăng thêm nguồn lực để phát triển kinh tế. Nguồn vốn FDI có thể hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế xã hội và thường là vốn đầu tư dài hạn, do các nhà ĐTNN tự quản


lý và tự chịu kết quả kinh doanh nên có hiệu quả để tăng trưởng kinh tế bền vững.

FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài : Ở các nước đang phát triển, công nghệ thường là công nghệ cổ truyền, lạc hậu với năng suất thấp. Bên cạnh đó, với trình độ phát triển kinh tế xã hội, giáo dục, khoa học kĩ thuật không cao, các nước này có ít khả năng phát triển những công nghệ mới và hiện đại. Mặt khác, với số vốn tích lũy ít ỏi, khả năng tự nhập khẩu công nghệ của các nước này cũng rất hạn chế. Trong hoàn cảnh đó, FDI được coi là phương tiện hữu hiệu để các nước này có thể tiếp cận với những công nghệ cao, hiện đại của nước ngoài.

Thông thường, khi triển khai dự án đầu tư vào một nước, chủ ĐTNN không chỉ chuyển vào đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu (còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng tiếp cân thị trường (còn gọi là công nghệ mềm) cũng như đưa chuyên gia nước ngoài vào hoặc đào tạo các chuyên gia bản xứ về các lĩnh vực đó. Điều này cho phép các nước nhận đầu tư không chỉ có được những công nghệ đơn thuần mà còn nắm vững cả các kĩ năng nguyên lý vận hành, sửa chữa, mô phỏng và phát triển nó, nhanh chóng tiếp cận được công nghệ hiện đại ngay cả khi nền tảng quốc gia chưa được tạo lập đầy đủ.

FDI mở ra cơ hội hội nhập kinh tế thế giới : Hiện nay, các nước đang phát triển đều đã nhận thức ra rằng sự phát triển kinh tế của mình phải dựa vào thị trường thế giới, phải tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế và họ luôn tìm cách để thực hiện quá trình đó một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.

Hội nhập kinh tế thế giới có nghĩa là định hướng phát triển kinh tế từ thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu. Các nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển cho thấy một trong những nhân tố đảm bảo cho chiến lược hội nhập thành công là thu hút FDI. Điều này về mặt lý thuyết là do đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn bó chặt chẽ với thương mại, còn về mặt thực


tiễn là do các nước đang thiếu kinh nghiệm và khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài. Hầu hết các nước đang phát triển đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và tạo ra những chuyển biến trong cơ cấu thương mại của mình là nhờ thu FDI vào các ngành công nghệ tiên tiến và những ngành sản xuất các sản phẩm được ưa chuộng trên thị trường thế giới.

FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá (CHH-HĐH) : Bằng việc chuyển giao công nghệ thường đã mất sức cạnh tranh ở chính quốc, nhưng lại còn khá mới mẻ và hiện đại đối với các nước tiếp nhận đầu tư, FDI góp phần cải thiện cơ cấu kinh tế các nước tiếp nhận đầu tư theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá và quốc tế hoá. ở những nền kinh tế mới CNH, đầu tư của các công ty xuyên quốc gia thường tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo.

FDI góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và nâng cao thu nhập: Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, mục đích chủ yếu của các công ty nước ngoài là nhằm thu lợi nhuận cao, tìm kiếm thị trường mới, củng cố chỗ đứng và duy trì lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do đó các công ty này đặc biệt chú trọng đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở nước tiếp nhận đầu tư. Thông qua việc thành lập các doanh nghiệp mới hoặc mở rộng quy mô các doanh nghiệp hiện có, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng khá lớn người lao động tại nước tiếp nhận, đặc biệt là tại những nước đang phát triển - nơi có nguồn lao động dồi dào, nhưng thiếu vốn để khai thác và sử dụng.


5.2.2. Tác động tiêu cực

Nguy cơ trở thành bão rác công nghệ: Mục tiêu của các nhà đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài là đạt được lợi nhuận cao nhất. Bởi vậy các nhà đầu tư bao giờ cũng tận dụng tối đa các yếu tố sản xuất. Bên cạnh đó, dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật nên máy móc, công nghệ rất mau trở nên lạc hậu, điều này luôn tạo ra sức ép buộc các nhà sản xuất phải


nhanh chóng đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lương sản phẩm. Kéo dài thời gian khai thác công nghệ bằng cách đầu tư ra bên ngoài chính là biện pháp giải quyết được hai mục tiêu trên.Vì lẽ đó mà hầu hết công nghệ mà các nhà đầu tư chuyển giao sang các nước đang và chậm phát triển đều là những công nghệ đã qua sử dụng, thậm chí có những công nghệ đã rất lạc hậu.

Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu có thể gây ra rất nhiều thiệt hại cho nước nhận đầu tư, đó là: Thứ nhất, rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó, do vậy nước chủ nhà thường bị các nhà đầu tư khai tăng giá công nghệ dẫn đến thiệt hại trong tỷ lệ góp vốn và cuối cùng là trong việc phân chia lợi nhuận; Thứ hai, gây ô nhiễm môi trường; Thứ ba, công nghệ lạc hậu thì chất lượng sản phẩm thấp, chi phí sản xuất cao và do đó sản phẩm của nước nhận đầu tư khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Bị biến thành nơi tiêu thụ sản phẩm và bị phụ thuộc vào vốn đầu tư và mô hình công ty ở chính quốc: Rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi chọn nước để đầu tư mang theo mong muốn mở rộng thị trường tại nước nhận đầu tư. Đây chính là chiến lược xuất khẩu sản phẩm ngay tại thị trường nội địa và cũng lại là một mâu thuẫn lớn với chính sách hướng về xuất khẩu của nước nhận đầu tư. Do đó trên thực tế luôn xuất hiện các hành vi tiêu cực làm trái với các quy định pháp luật và các thoả thuận hợp đồng ban đầu về tiêu thụ sản phẩm. Nếu sản phẩm có khả năng xuất khẩu được thì các nhà đầu tư luôn nắm giữ và độc quyền thị trường tiêu thụ. Có nhiều nước đang phát triển có tích luỹ thấp, do đó nguồn vốn đầu tư chủ yếu dựa vào đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nguồn vốn bên ngoài khác. Do đó khi có những biến cố xảy ra như khủng hoảng kinh tế, bất ổn về chính trị... các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn đột ngột sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế các nước này.

Cơ cấu đầu tư vào các ngành không cân đối : Với mục đích lợi nhuận, các nhà đầu tư thường đầu tư vào những ngành, lĩnh vực có hiệu suất lợi nhuận cao như bảo hiểm, ngân hàng, khai thác dầu khí...trong khi nước nhận đầu tư lại muốn các nhà ĐTNN đầu tư vào các ngành trong nước chưa phát triển như nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng... Chính vì thế, nếu nhà nước không có những


quy hoạch và cơ chế hữu hiệu sẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên bị khai thác quá mức, ô nhiễm môi trường, cơ chế kinh tế méo mó.

FDI có thể gây nên sự phụ thuộc về chính trị : Nước đầu tư là những nước nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh, do vậy nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước đang phát triển dễ bị thua thiệt, chịu sức ép của nước đầu tư về chính trị.

Ngoài ra, FDI còn gây nên nhiều mặt tiêu cực khác như chảy máu chất xám, dòng ngoại tệ chảy ngược, mất cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị, sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội...

II. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỊCH VỤ

1. Khái niệm

Trên thực tế, hiện nay vẫn tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về ngành dịch vụ. Sở dĩ có sự khác biệt này là do xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau.

Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam : « Dịch vụ là hoạt động phục vụ nhằm thoả mãn các nhu cầu sản xuất kinh doanh và sinh hoạt. Do nhu cầu con người rất đa dạng nên có nhiều loại dịch vụ như : dịch vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ phục vụ sinh hoạt công cộng, dịch vụ cá nhân dưới hình thức những dịch vụ gia đình. ».

Theo từ điển Tiếng Việt : Dịch vụ là những công việc phục vụ trực tiếp những nhu cầu nhất định của số đông các tổ chức và phải được trả công.

Tóm lại, Dịch vụ là hợp động phục vụ con người nhằm thoả mãn tốt nhất các nhu cầu khác nhau (nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, nhu cầu sản xuất, nhu cầu đời sống, nhu cầu cá biệt, nhu cầu đồng loạt...) và thông qua đó, bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, các tổ chức kinh doanh dịch vụ nhận được phần thu nhập hợp lý của mình.

2. Đặc điểm


Sản phẩm của dịch vụ thường không tồn tại dưới dạng vật chất thông thường. Các sản phẩm hàng hoá thông thường do các ngành sản xuất tạo nên đều tồn tại định hình, dạng thức ổn định (ổn định về mặt giá trị sử dụng và giá trị của sản phẩm, hàng hoá), người mua có thể cảm nhận, xem xét bằng các giác quan trước khi quyết định mua. Đối với dịch vụ, các sản phẩm không tồn tại dưới dạng vật chất cố định mà nó thể hiện ở mức độ thoả mãn của khách hàng về một nhu cầu nào đó. Điều này thể hiện rõ nhất ở loại hình dịch vụ tư vấn. Khách hàng xem xét và quyết định mua một sản phẩm nào đó là dựa vào yếu tố tiền sản phẩm, tức là không phải dựa vào trực tiếp sản phẩm mà dựa vào các yếu tố cấu thành nên sản phẩm đó.

Quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời : thời gian lao động của người lao động và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trùng khớp với thời gian tiêu dùng của khách hàng. Chính vì vậy, trong kinh doanh dịch vụ không có sản phẩm dự trữ và mang tính thời vụ sâu sắc, doanh nghiệp không có thời gian và cơ hội để sửa chữa các khuyết điểm.

Tính không tách rời : Việc sản xuất và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ diễn ra đồng thời nên nếu thiếu mặt này thì không thể có mặt kia.

Không có sản phẩm dự trữ : Chính từ đặc điểm sản xuất tiêu dùng diễn ra đồng thời nên dịch vụ không có sản phẩm dự trữ, không thể lập kho để lưu trữ sản phẩm.

Mang tính thời vụ sâu sắc : kinh doanh dịch vụ thường theo mùa vụ, có thể theo từng thương vụ.

Mang tính cá biệt : Dịch vụ định hướng theo từng khách hàng cụ thể dựa trên những yếu tố chung, thường lại rất cá biệt với riêng từng người. Trong quá trình kinh doanh, cái riêng đó được thể hiện nhưng không đầy đủ vì nó chỉ thể hiện được cái riêng của một số đông còn số hẹp của một cá thể chỉ được thể hiện đầy đủ khi tiêu dùng sản phẩm.


3. Phân loại

3.1 Theo đối tượng sử dụng dịch vụ


- Dịch vụ sản xuất : Phục vụ cho quá trình sáng tạo giá trị sử dụng và giá trị của các sản phẩm, hàng hoá như dịch vụ kinh tế, kỹ thuật, tư vấn... Lấy đối tượng phục vụ là con người nhưng là con người kinh doanh và máy móc hoặc quá trình vận hành của doanh nghiệp.

- Dịch vụ đời sống : Phục vụ cho đời sống các nhân người tiêu dùng với tư cách là các cá thể trong quá trình hoạt động, nghỉ ngơi, giải trí nhằm tái sản xuất sức lao động. Dịch vụ đời sống bao gồm dịch vụ vật chất và dịch vụ tinh thần, dịch vụ văn hoá

3.2 Theo nội dung và tính chất dịch vụ

- Dịch vụ vật chất : Là dịch vụ thoả mãn nhu cầu thông qua các phương tiện mang tính vật chất.

- Dịch vụ phi vật chất : Là dịch vụ thoả mãn nhu cầu của con người thông qua các phương tiện phi vật chất như dịch vụ tư vấn, khuyến cáo. Xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật đạt trình độ tiên tiến, mức sống nâng cao thì loại hình dịch vụ phi vật chất càng đa dạng.

3.3 Theo các khâu trong quá trình sản xuất

- Dịch vụ trong quá trình sản xuất

- Dịch vụ trong quá trình phân phối sản phẩm

- Dịch vụ trong lưu thông thương mại.

- Dịch vụ trong tiêu dùng.

3.4 Theo ngành

- Dịch vụ công nghiệp

- Dịch vụ nông nghiệp

- Dịch vụ nông lâm ngư nghiêp

- Dịch vụ giao thông vận tải.

- Dịch vụ xây dựng.

- Dịch vụ y tế.

- Dịch vụ văn hoá giáo dục.

- Dịch vụ bất động sản.

4. Các yếu tố ảnh hưởng đến ngành dịch vụ.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí