TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Đề tài:
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO LĨNH VỰC DỊCH VỤ CỦA HÀ NỘI THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG
Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Nguyệt
Lớp : Trung 2
Khóa 43
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Trần Thị Ngọc Quyên
Hà Nội, 06 - 2008
Danh mục chữ viết tắt
Đầu tư trực tiếp nước ngoài | |
CNH-HDH | Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá |
ĐTNN | Đầu tư nước ngoài |
IMF | Quỹ tiền tệ quốc tế |
M&A | Mua lại và sáp nhập |
BOT | Hợp đồng Xây dựng-kinh doanh-chuyển giao |
BTO | Hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh doanh |
BT | Hợp đồng xây dựng-chuyển giao |
ODA | Viện trợ phát triển chính thức |
TNCs | Công ty xuyên quốc gia |
MTĐT | Môi trường đầu tư |
KCN-KCX | Khu công nghiệp - khu chế xuất |
ASEAN | Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á |
WTO | Tổ chức thương mại thế giới |
TPHCM | Thành phố Hồ Chí Minh |
UBND | Uỷ ban nhân dân |
GDP | Tổng sản phẩm quốc nội |
Có thể bạn quan tâm!
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội - Thực trạng và giải pháp - 2
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Ngành Dịch Vụ.
- Vai Trò Của Ngành Dịch Vụ Đối Với Nền Kinh Tế
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
1. Lý do chọn đề tài
LỜI MỞ ĐẦU
Dịch vụ là một trong ba ngành kinh tế quan trọng bên cạnh công nghiệp và nông nghiệp. Đây là khu vực kinh tế có khả năng lớn nhất trong việc huy động vốn, tạo sự liên kết giữa các ngành và phát huy mọi nguồn lực kinh tế để phát triển. Sự phát triển của dịch vụ được đánh giá như thước đo của nền kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế hiện đại, lĩnh vực dịch vụ có vai trò ngày càng quan trọng . Trong những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động dịch vụ phát triển. Nhờ vậy khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống của dân cư, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số lĩnh vực dịch vụ như: bưu chính viễn thông; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; vận tải hàng không; vận tải biển; du lịch, xuất khẩu lao động, ... đã có tốc độ tăng trưởng nhanh; chất lượng dịch vụ được nâng lên đáng kể; thu hút nhiều lao động, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu.
Hà Nội là thủ đô của Việt Nam, là trung tâm văn hoá - kinh tế - chính trị của đất nước. Việc thúc đẩy kinh tế thủ đô Hà Nội phát triển là một đòi hỏi cấp thiết. Để có thể phát triển nền kinh tế, ngoài việc sử dụng các nguồn vốn trong nước, Hà Nội cần có chính sách tăng cường thu hút vốn từ bên ngoài.
FDI là bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia mà nguồn vốn trong nước xét tổng thể có ý nghĩa quyết định. FDI không thể thay thế được các nguồn đầu tư khác nhưng có thế mạnh riêng của nó. Trong những năm trước mắt, khi nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn hạn hẹp, nguồn ODA chưa đáng kể thì FDI giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình hội nhập, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò to lớn, là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết tình trạng thất nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội - Thực trạng và Triển vọng.
2. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận nhằm mục đích trước hết là hệ thống hoá các vấn đề về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và một số vấn đề về ngành dịch vụ. Tiếp đến là phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội trong thời gian qua, đánh giá một số thành công và những vấn đề còn tồn tại trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội. Cuối cùng, đưa ra các giải pháp nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn, khắc phục những tồn tại trong hoạt động thu hút FDI vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội, qua đó nhằm tăng cương thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu là giai đoạn 1988-2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận đã sử dụng phương pháp duy vật, duy vật lịch sử và phương pháp điều tra thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh thống kê để làm rõ mục tiêu nghiên cứu trên.
5. Kết cấu khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khoá luận được kết cấu thành 3 chương sau
đây:
Chương I: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngành dịch vụ Chương II: Thực trạng FDI vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội
Chương III: Triển vọng và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI
vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội
Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Thạc sỹ Trần Thị Ngọc Quyên đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ NGÀNH DỊCH VỤ
I. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ( FDI)
1. Khái niệm
Để thực hiện được quá trình sản xuất kinh doanh thì vốn đầu tư là yếu tố không thể thiếu. Vốn dùng để mua sắm trang thiết bị kỹ thuật, trả lương cho công nhân, chi trả các chi phí cần thiết phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn đầu tư có thể được huy động ngoài nước thông qua các hình thức khác nhau. Trong quá trình hội nhập, toàn cầu hoá nền kinh tế, FDI là một trong những kênh thu hút vốn nước ngoài của quốc gia.
Để làm rõ được khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trước tiên cần phải hiểu được thế nào là hoạt động đầu tư. Cho đến nay, đã có rất nhiều khái niệm được đưa ra nhằm định nghĩa hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, trong quy mô bài viết này, chỉ xin nêu ra một khái niệm được dùng phổ biến nhất.
Theo đó:
Đầu tư là tập hợp các hoạt động sử dụng vốn vào một hoạt động nhất định nhằm thu lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã hội.
Ban đầu, các hoạt động đầu tư chỉ diễn ra giữa các chủ thể trong cùng một quốc gia. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của loài người, các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia được thiết lập và ngày càng được tăng cường. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế đó, đã làm xuất hiện một hình thức đầu tư mới mà quy mô của nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, đó là hoạt động đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế chính là việc các nhà đầu tư ở quốc gia này bỏ vốn vào các quốc gia khác theo một chương trình đã được hoạch định trong một thời gian dài nhằm đáp ứng các nhu cầu của thị trường và mang lại lợi ích lớn hơn cho chủ đầu tư và cho xã hội. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được nghiên cứu trong phần này chính là một trong hai loại hình cơ bản của đầu tư quốc tế.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về FDI:
Theo IMF: “FDI là số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư muốn tìm được chỗ đứng trong việc quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường.”. Khái niệm này nhấn mạnh 3 yếu tố là tính lâu dài của hoật động đầu tư, chủ đầu tư phảI có yếu tố nước ngoài, động cơ đầu tư là dành quyền kiểm soát công ty trực tiếp hoạt động quản lý doanh nghiệp.
Các nhà kinh tế học B.O. Siderten Geofrey Reed và Dominick Salvatore cũng có cách tiếp cận tương tự. Trong cuốn sách International Economics 1995, Salvatore đa đưa ra khái niệm: “ Đầu tư gián tiếp là các tài sản tài chính thuần tuý như cổ phiếu, trái phiếu được mệnh giá bằng đồng tiền trong nước. FDI là đầu tư thực vào nhà máy, các hàng hoá đầu tư, đất đai, hàng tồn kho, ở đó quyền quản lý và tư bản cùng tồn tại và nhà đầu tư giữ quyền quản lý suốt quá trình sử dụng vốn đầu tư đó”. Định nghĩa này chưa thể hiện được mục tiêu lớn nhất của đầu tư là lãi suất cao.
Theo luật đầu nước ngoài tại Việt Nam (1996): “FDI là việc các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”. Khái niệm nhấn mạnh chủ đầu tư là người nước ngoài nhằm xác định được tư bản được chuyển dịch trong FDI nhất thiết phải vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia.
Tóm lại FDI là hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư sẽ đầu tư toàn bộ hay một phần vốn đủ lớn ở một quốc gia khác để giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát hoạt động đầu tư.
2. Đặc điểm của FDI
FDI là hình thức đầu tư tư nhân: Người bỏ vốn và người sử dụng vốn là một chủ thể. Nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn, tự quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trên cơ sở tuân thủ luật pháp của nước sở tại. Nguồn vốn FDI có thể của chính phủ, cá nhân hoặc hỗn hợp.
FDI là hình thức đầu tư dài hạn: Hoạt động đầu tư này gắn liền với việc xác định các cơ sở, chi nhánh sản xuất kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư. Nói cách khác, đây là vốn có tính chất “ bén rễ” ở nước sở tại nên không dễ rút đi trong một thời gian ngắn. Do đó, với tư cách là một dòng vốn quốc tế, FDI có bản chất là dòng chu chuyển vốn có thời hạn tương đối dài. Dòng vốn này gắn với quá trình tự do hoá đầu tư, phân biệt với dòng tiền ngắn hạn, thường gắn với quá trình tự do hoá thương mại hoặc kinh doanh, đầu tư tiền tệ, ngoại hối và cùng có tính chất khác biệt so với hoạt động đầu tư gián tiếp hoặc các giao dịch vay nợ giữa các quốc gia, các doanh nghiệp trên thế giới thường gắn với quá trình tự do hoá tài chính. Đi liền với dự án đầu tư là một địa điểm cụ thể nên FDI có tính ổn định tương đối cao, dễ theo dõi, dễ kiểm soát, không biến động quá bất thường như các dòng tiền ngắn hạn hoặc các khoản đầu tư gián tiếp.
Chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý: Chủ sở hữu vốn đầu tư đồng thời là người tiếp nhận quản lý, điều hành việc sử dụng vốn, chịu trách nhiệm và hưởng lợi ích từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, căn cứ vào mức độ góp vốn. Để được tham gia vào ban điều hành, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn của dự án FDI tuỳ thuộc vào quy định của từng quốc gia. Theo UNCTAD, được coi là FDI khi sở hữu từ 10% vốn trở lên của một doanh nghiệp ở nước khác. Theo luật Việt Nam, phải chiếm ít nhất 30% tổn vốn pháp định của dự án trừ trường hợp do chính phủ quy định.
Việc tiếp nhận FDI không gây gánh nặng nợ nần cho nước nhận đầu tư mà trái lại nước nhận đầu tư còn có cơ hội tiếp nhận vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý để phát triển tiềm năng trong nước.
3. Phân loại FDI
3.1 Theo hình thức xâm nhập
Đầu tư mới (Greenfield Investment): Đây là hình thức nhà ĐTNN dùng vốn để đầu tư từ đầu về cơ sở vật chất, nhà xưởng, máy móc..., là hình thức đầu tư tốn kém, nhiều rủi ro về pháp luật và thâm nhập thị trường nhưng lợi nhuận cao. Đầu tư mới giúp các nhà đầu tư sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của mình, sử dụng nguồn lao động phù hợp nhất...
Mua lại và sáp nhập (Merger and Acquisition): Thông qua việc sáp nhập với các công ty ở nước ngoài hoặc mua đứt các công ty đó, nhà đầu tư nước ngoài có thể thiết lập sự có mặt của mình ở nước sở tại một cách nhanh nhất. Đây là hình thức đầu tư phổ biến của các công ty xuyên quốc gia muốn nhanh chóng tìm được chỗ đứng của mình ở nước sở tại. Hình thức này thường diễn ra trong các ngành như viễn thông, chế tạo ô tô, ngân hàng.
Việc hợp nhất, mua lại các công ty để thành lập chi nhánh sản xuất ở nước ngoài giúp các nhà đầu tư nước ngoài bảo vệ, củng cố và phát huy thế mạnh của mình trong quá trình cạnh tranh quốc tế. Đặc biệt, hình thức này giúp sử dụng hiệu quả mạng lưới cung ứng và hệ thống phân phối sẵn có để phục vụ tốt hơn cho khách hàng toàn cầu, mở rộng thị phần, tăng năng lực cạnh tranh và nguồn thu lợi nhuận.
3.2. Theo hình thức pháp lý
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% foreign Capital enterprise): Đây là doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn, do đó nó hoàn toàn thuộc sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài, chịu sự điều hành quản lý của các nhà ĐTNN nhưng chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại.
Doanh nghiệp liên doanh (Joint-venture enterprise). Đây là một hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau, trên cơ sở cùng sở hữu về vốn góp, cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động dịch vụ hoặc các hoạt động nghiên cứu bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai theo các điều khoản cam kết trong hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên tham gia phù hợp với các quy định của nước sở tại.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual business Co-operation). Đây là hình thức liên kết kinh doanh giữa đối tác trong nước với các nhà ĐTNN trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên bằng các văn bản kí kết, trong đó các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân riêng mà không tạo nên một pháp nhân mới.