Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao( Building Operate Transfer- BOT) : Được thành lập trên cơ sở văn bản kí kết giữa một bên là nhà ĐTNN và một bên là Chính phủ nước sở tại để thành lập một pháp nhân mới ở nước sở tại nhằm thực hiện trách nhiệm của từng bên theo văn bản đã kí. Hình thức BOT thường áp dụng chủ yếu cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng và kinh doanh theo thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Khi hết thời hạn kinh doanh, công trình sẽ được chuyển giao không bồi hoàn cho nước sở tại.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao-kinh doanh(Building Transfer Operate
- BTO): Hình thức này giống BTO, nhưng khác ở điểm là sau khi xây dựng xong, công trình được chuyển giao cho nước sở tại trước rồi nhà đầu tư mới được khai thác.
Hợp đồng xây dựng-chuyển giao (Building Transfer-BT): Hình thức này cũng giống như hình thức BTO nhưng khác ở điểm là sau khi chuyển giao xong nhà đầu tư sẽ được chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà ĐTNN thực hiện một dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý chứ không được khai thác công trình đã chuyển giao.
3.3 Theo mục đích đầu tư
FDI thay thế nhập khẩu: Các quốc gia đang phát triển phải nhập khẩu nhiều hàng hoá để đáp ứng nhu cầu trong nước với những sản phẩm mới nên FDI thay thế nhập khẩu được áp dụng. Đặc biệt Nhà nước khuyến khích FDI vào lĩnh vực sản xuất sản phẩm mà nước đó đang nhập khẩu nhiều làm giảm giá thành sản phẩm, thúc đẩy sản xuất trong nước. Tuy nhiên khi thị trường bão hoà thì khó khăn trong việc thu hút FDI.
FDI hướng về xuất khẩu: Nhà đầu tư tận dụng nguồn nguyên liệu có sẵn, nhân công rẻ ở nước tiếp nhận đầu tư để sản xuất sản phẩm sau đó lại xuất khẩu trở lại nước mình và xuất khẩu sang nước khác. Khi thị trường nhập khẩu bị bão hoà, FDI hướng về xuất khẩu được khá nhiều nước sử dụng để thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu.
FDI theo định hướng khác của chính phủ: Tuỳ điều kiện của từng quốc
Có thể bạn quan tâm!
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ của Hà Nội - Thực trạng và giải pháp - 1
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Ngành Dịch Vụ.
- Vai Trò Của Ngành Dịch Vụ Đối Với Nền Kinh Tế
- Bài Học Kinh Nghiệm Đối Với Việt Nam
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
gia, tuỳ định hướng phát triển để đưa ra chiến lược thu hút FDI đạt hiệu quả tốt nhất.
3.4 Theo ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối tượng tiếp nhận đầu tư
FDI theo chiều dọc (Vertical FDI): Là hình thức chủ đầu tư đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề cùng chu trình sản xuất như ở nước mình nhưng khác giai đoạn. Ví dụ: Các doanh nghiệp sản xuất máy tính như Intel thường xây dựng các nhà máy sản xuất linh kiện ở nước khác để sản xuất linh kiện phụ phục vụ lắp ráp ở nước mình.
FDI theo chiều ngang (Horizontal FDI): Chủ đầu tư đầu tư ra nước khác để sản xuất sản phẩm cùng ngành sản xuất trong nước. Ví dụ: ngành lắp ráp ô tô, nhà đầu tư đầu tư cào lĩnh vực khác nhau để sản xuất các loại xe khác nhau, thoả mãn nhu cầu khác nhau.
FDI hốn hợp (Conglomerate FDI): FDI hỗn hợp xảy ra khi một công ty theo đuổi mục tiêu điều hành hoặc hợp nhất các công ty ở nước khác để sản xuất sản phẩm hoàn toàn không liên quan đến sản phẩm của mình, từ đó hình thành công ty đa quốc gia có khả năng đa dạng hoá sản phẩm và tiềm lực kinh tế lớn.
3.5 Theo lĩnh vực đầu tư
Theo từng lĩnh vực ngành nghề, dựa trên cơ cấu kinh tế ngành của từng quốc gia sẽ có FDI vào công nghiệp-xây dựng, FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, FDI vào lĩnh vực dịch vụ.
FDI theo ngành giúp nước nhận đầu tư đánh giá được lĩnh vực thu hút nhiều FDI từ đó khuyến khích, điều chỉnh chiến lược thu hút, phát triển FDI hài hoà giữa các ngành kinh tế theo cơ cấu kinh tế của quốc gia
4. Những nhân tố ảnh hưởng tới thu hút FDI
Khả năng thu hút FDI đối với mỗi quốc gia phụ thuộc vào khá nhiều nhân tố, các nhân tố thuộc về quốc gia tiếp nhận, có nhân tố do các yếu tố bên ngoài. Với mỗi hướng nghiên cứu thể hiện qua các công trình nghiên cứu khác nhau, các tác giả có những cách nhìn nhận vấn đề và phân tích các nhân tố theo các hướng khác nhau. Tuy nhiên nhân tố ảnh hưởng tới thu hút FDI được phân tích từ góc độ của quốc gia tiếp nhận, ngoài ra, có xem xét đến một số yếu tố ảnh
hưởng bên ngoài.
4.1 Các nhân tố liên quan tới nhà đầu tư nước ngoài
Mặc dù đầu tư ra nước ngoài đã trở thành một tất yếu kinh tế trong nền kinh tế thế giới hiện tại, nhưng không có nghĩa là ai cũng có thể trở thành nhà đầu tư ra nước ngoài. Hơn nữa, có nhiều nguyên nhân khiến các nhà đầu tư chuyển vốn ra nước ngoài kinh doanh, có nhiều hình thức đầu tư ra nước ngoài và mục tiêu cần đạt được của các nhà đầu tư là khác nhau, do vậy, một quốc gia muốn thu hút FDI không thể không nghiên cứu về nhuẽng vấn dề của đối tác trong tương lai.
4.1.1 Chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của nhà đầu tư.
Nếu như ODA chịu sự chi phối của các quốc gia, vay thương mại chịu sự chi phối của các tập đoàn tài chính quốc tế thì FDI chịu sự chi phối của các TNCs. Các TNCs là các công ty mà lĩnh vực hoạt động của nó vượt ra khuôn khổ một quốc gia để mở rộng hoạt động của các quốc gia khác. Khi nguồn lực trong nước trở nên hạn hẹp, TNCs tìm đến những vùng đất mới có nguồn lực và thị trường tiêu thụ hứa hẹn đem lại lợi nhuận nhiều hơn, gây ra một sự chuyển dịch vốn mạnh mẽ từ quốc gia này sang quốc gia khác, hình thành nên FDI. Chiến lược phát triển của các TNCs là chiến lược kinh doanh toàn cầu, tiếp tục vươn ra các khu vực với quy mô ngày càng lớn.
Mục đích chung nhất là tìm kiếm lợi nhuận cao. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển của tổ chức kinh tế và mục tiêu của nó ở thị trường nước ngoài, mục tiêu cụ thể là khác nhau.
4.1.2 Tiềm lực kinh tế của nhà đầu tư
Đối với nhà đầu tư, yếu tố quyết định nhất đối với họ là khả năng tài chính để đầu tư. Nếu môi trường đầu tư có hấp dẫn, điều kiện kinh doanh có nhiều thuận lợi nhưng họ không có vốn thì ý đồ đầu tư cũng không thể thực hiện được. Mỗi doanh nghiệp đều có khả năng tài chính giới hạn, bao gồm vốn tự có và nguồn vốn huy động. Đánh giá tiềm lực tài chính của các nhà đầu tư là một yếu tố mà nước nhận đầu tư phải xem xét khi cấp giấy phép đầu tư nhằm tránh tình trạng đăng ký rồi không có khả năng thực hiện, sẽ làm lỡ cơ hội đầu tư của
các nhà đầu tư khác hoặc kéo dài quá trình xây dựng-liên quan đến cơ hội kinh doanh.
4.1.3 Năng lực kinh doanh của nhà đầu tư
Là người trực tiếp bỏ vốn và quản lý kinh doanh, các nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Đến lượt mình, chính kết quả thực tế kinh doanh của nhà đầu tư sẽ là động lực thúc đẩy hay kiềm chế các quyết định đầu tư tiếp theo của họ...
Tuy nhiên, trên thực tế, kết quả kinh doanh tuỳ thuộc rất quan trọng vào năng lực kinh doanh của nhà đầu tư, tức phụ thuộc vào khả năng nhận thức, nắm bắt đầy đủ thông tin, xử lý kịp thời, hiệu quả các thông tin và các yếu tố đầu vào, đầu ra khác, khả năng tổ chức điều hành công việc cũng như phụ thuộc vào bản lĩnh của nhà đầu tư.
4.2 Các yếu tố thuộc nước chủ đầu tư
Chính sách đầu tư ra nước ngoài của quốc gia chủ đầu tư: Mỗi quốc gia đều có chiến lược phát triển riêng do đó chính sách đầu tư ra nước ngoài của mỗi quốc gia cũng khác nhau. Định hướng đầu tư vào khu vực nào, quốc gia nào, ngành nào... và có những chính sách ưu đãi nào cho nhà đầu tư khi đầu tư vào quốc gia thuộc khu vực khuyến khích đầu tư.
Mối quan hệ chính trị - kinh tế của quốc gia chủ đầu tư: Một điều đương nhiên là quốc gia đó sẽ không đầu tư nhiều vào nước mà họ cấm vận, mối quan hệ chính trị không được suôn sẻ (như Mỹ và Việt Nam trước khi có hiệp định Việt-Mỹ) hoặc chưa có ký kết hiệp định thương mại... Trong xu thế toàn cầu hoá ngày càng phát triển, không quốc gia nào tự khép kín, tự cô lập với thế giới mà có thể phát triển được. Do sự hợp tác cùng tồn tại giữa các quốc gia đem lại lợi ích dân tộc. Các mối quan hệ quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trong đó quan hệ kinh tế quốc tế là quan trọng nhất vì nó vừa là cơ sở và cũng vừa là động lực thúc đẩy mối quan hệ ở các lĩnh vực khác. Các mối quan hệ kinh tế quốc tế của một quốc gia là cơ hội để tìm kiếm đối tác đầu tư.
4.3 Các yếu tố thuộc về quốc gia tiếp nhận đầu tư
Đây là nhân tố cơ bản quyết định đến khả năng thu hút FDI của một quốc gia. Các nhân tố này có thể xem nhu nhân tố bên trong tác động trực tiếp tới sự di chuyển của dòng vốn FDI vào một quốc gia.
4.3.1 Khái niệm môi trường đầu tư ( MTĐT)
Hiện nay đang tồn tại một số khái niệm về MTĐT nhưng dù tiếp cận ở góc độ nào cũng đều đề cập đến môi trường tiến hành các hoạt động kinh doanh của NĐT, những yếu tố, điều kiện có ảnh hưởng tác động đến tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Do đó có thể khẳng định: MTĐT là tổng hợp các yếu tố và điều kiện khách quan, chủ quan bên trong và bên ngoài doanh nghiệp hay các nhà đầu tư có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của NĐT.
4.3.2 Các yếu tố cấu thành MTĐT
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút FDI của một nước. Nó không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện của nước chủ nhà mà nó còn phụ thuộc vào mục đích của nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư muốn tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm thì điều kiện hấp dẫn nhà đầu tư sẽ là dân số đông, thu nhập trung bình cao, nếu họ muốn tìm nguồn nguyên liệu rẻ thì điều kiện đó là tài nguyên thiên nhiên dồi dào, dễ khai thác. Tuy nhiên, nếu không xét đến khả năng và nhu cầu về vốn đầu tư của cả bên nước chủ đầu tư lẫn bên nước nhận đầu tư và với giả định bối cảnh chung của thế giới ở điều kiện bình thường cả về tự nhiên và nhân tạo thì có thể nhận thấy dòng vốn đầu tư quốc tế nói chung và dòng FDI nói riêng chỉ thực sự mở rộng và ưa tìm đến những nơi có môi trường đầu tư đảm bảo cho đồng vốn sinh sôi nảy nở.
Thực tế đã chứng minh một môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh để thu hút FDI trước hết phải bao gồm những nhân tố chủ yếu sau:
4.3.2.1. Các yếu tố về khung chính sách
Sự hoàn chỉnh, hữu hiệu của hệ thống pháp luật : Hệ thống pháp luật đầu tư là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư, bao gồm các văn bản pháp luật, các văn bản dưới luật, các văn bản quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài như hướng dẫn đầu tư, đánh giá, thẩm định dự án và quản lý các hoạt động đầu
tư nhằm tạo nên một hành lang pháp lý đồng bộ, hiệu quả tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bên cạnh đó, các quy định trong hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư của họ không vi phạm pháp luật, không làm phương hại đến lợi ích, an ninh quốc gia. Ví dụ như phải đảm bảo không quốc hữu hoá tài sản tư nhân, đảm bảo việc di chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư được dễ dàng. Nội dung của hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ, chặt chẽ, không chồng chéo, phù hợp với quy định của luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng thu hút FDI càng cao. Một hệ thống pháp luật hoàng chỉnh, hữu hiệu có thể làm tăng lượng FDI thu hút được lên tới 100%
Môi trường kinh doanh : thể hiện sự công bằng đối xử giữa nhà ĐTNN và nhà đầu tư trong nước, rút ngắn danh mục các ngành công nghiệp thuộc loại cấm hoặc hạn chế với nhà ĐTNN, coi FDI là một bộ phận cấu thành quan trọng trong việc hình thành tổng vốn cần thiết, Một môi trường đầu tư bình đẳng sẽ tạo nên sự cạnh tranh gay gắt nhưng lành mạnh.
4.3.2.2 Các yếu tố kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế là một nội dung quan trọng, đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện chính sách đầu tư. Đặc điểm này liên quan đến hàng loạt các yếu tố ổn định kinh tế vĩ mô (tiền tệ, tài chính), cơ sở hạ tầng (hệ thống các dịch vụ), kết cấu hạ tầng (cơ cấu ngành Nông nghiệp, Công nghiệp, Dịch vụ), thu nhập dân cư ( sức mua, giá cả lao động).
4.3.2.3 Các yếu tố hỗ trợ kinh doanh
Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội: Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro về kinh tế - chính trị của dòng vốn FDI vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà đầu tư nước ngoài. Những bất ổn về kinh tế - chính trị không chỉ làm cho dòng FDI bị chững lại, bị thu hẹp lại mà còn làm cho dòng vốn từ trong nứơc chảy ngược ra ngoài, tìm đến nơi trú ẩn mới an toàn và hiệu
quả hơn. Theo thống kê, người ta đã nhận định rằng một nước mà có tình hình chính trị xã hội ổn định thì có thể tăng lượng FDI thu hút được lên 57%.
Điều kiện này không chỉ bao gồm các yêu cầu về duy trì sự phát triển kinh tế ổn định, trật tự an ninh chính trị - xã hội cần thiết cho sự vận hành bình thường của đất nước mà còn phải duy trì được dư luận và tâm lý chung thuận lợi và ủng hộ các nhà đầu tư nước ngoài. Bất kì sự bất ổn nào về chính trị như khủng bố, đảo chính, nội chiến hay sự hoài nghi, tẩy chay, thiếu thiện cảm của giới lãnh đạo và quần chúng nhân dân đối với ĐTNN đều là những nhân tố nhạy cảm tác động tiêu cực tới tâm lý cũng như là hành động thực tế của nhà ĐTNN và nó cũng sẽ làm chậm lại những cải cách về chính sách cần thiết nhằm thu hút FDI của nước chủ nhà.
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng :Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kĩ thuật của quốc gia tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm hệ thống giao thông vận tải phát triển với cầu, cảng, đường xá, bến bãi, sân bay và các phương tiện giao thông bảo phủ toàn quốc và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống bưu chính viễn thông với các thiết bị hiện đại, có thể nối mạng quốc gia và quốc tế một cách thông suốt và an toàn; hệ thống điện nước dồi dào, phân bổ tiện lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống hàng ngày và một mạng lưới dịch vụ phát triển, rộng khắp và có chất lượng cao như y tê, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, thương mại, quảng cáo.
Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho chủ ĐTNN cảm thấy thoải mái và an toàn như ở trong nước họ và giúp họ giảm các chi phí sản xuất về giao thông vận tải, thông tin liên lạc mà không bị cản trở trong việc kinh doanh với đối tác ở nước sở tại cũng như toàn cầu.
Dịch vụ thông tin đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn FDI. Nội dung hoạt động dịch vụ này rất phong phú và mang tính thời sự cao, bao gồm từ việc cung cấp thông tin cập nhật, chính xác về môi trường đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư cho các đầu tư tiềm năng trên toàn thế giới; hỗ trợ
các đối tác đầu tư trong và ngoài nước tiếp xúc và lựa chọn các đối tác thích hợp đến giúp đỡ các bên làm thủ tục kí kết hợp đồng kinh doanh, thành lập doanh nghiệp liên doanh và các dịch vụ thông tin cần thiết khác.
Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng tính hấp dẫn cảu môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợ cho các chủ đầu tư triển khai các dự án và kế hoạch đầu tư của mình mà đó còn là cơ hội để nước chủ nhà có thể và có khả năng thu lợi từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được thông qua thu nhập từ các dịch vụ như hải quan, thương mại, tài chính...
Sự phát triển của đội ngũ lao động và hệ thống doanh nghiệp trong nước: Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật ngày nay, lao động có tay nghề, kĩ thuật cao là yêu cầu cần thiết nhất lại đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN - nơi mà trình độ công nghệ được coi là cao hơn mặt bằng trong nước. Vì vậy, việc thiếu các nhân lực kĩ thuật lành nghề, các lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba và sự lạc hậu về trình độ khoa học - công nghệ trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai dự án của họ, làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước. Theo thống kê thì cứ tăng số lao động trên 25 tuổi được đào tạo sau phổ thông trung học lên 1% thì lượng FDI thu hút được sẽ tăng thêm 3%.
Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức tiếp thu công nghệ chuyển giao, và là đối tác bình đẳng với các nhà đầu tư là điều kiện cần thiết để nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn luồng vốn FDI. Hệ thống doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, thông thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính. Bởi vì các doanh nghiệp này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển vốn trong nước và quốc tế, từ đó càng thuận lợi cho các hoạt động đầu tư.