Đề xuất được những giải pháp ứng phó với BĐKH trong điều kiện của địa phương.
III. Đối tượng nghiên cứu
Các biểu hiện và tác động của BĐKH; cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của người dân xã Hưng Hòa, TP Vinh, Nghệ An.
IV. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Xã Hưng Hòa, Thành phố Vinh, Nghệ An
- Phạm vi thời gian: Luận văn được tiến hành từ tháng 04/2012 đến tháng 12/ 2012. Các số liệu được hồi cứu trong khoảng thời gian 15 năm trở lại đây
V. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần hệ thống hóa các tư liệu về BĐKH, các tác động của BĐKH và khả năng thích ứng của cộng đồng. Cung cấp các tư liệu khoa học và thực tiễn về tác động của BĐKH và khả năng thích ứng của cộng đồng tại xã Hưng Hòa, TP Vinh, Nghệ An giúp cho các cơ quan chức năng cũng như người dân có những kế hoạch, biện pháp thích ứng với BĐKH kịp thời, phù hợp và hiệu quả hơn.
VI. Kết cấu của luận văn
Luận văn có cấu trúc theo quy định gồm: Lời cảm ơn
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá tác động và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của cộng đồng tại xã Hưng Hoà - thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An - 1
- Tác Động Của Biến Đổi Khí Hậu Đến Các Lĩnh Vực
- Tác Động Của Bđkh Tới An Ninh Môi Trường Và An Ninh Quốc Gia Tập Trung Ở Những Vấn Đề Sau:
- Địa Điểm, Thời Gian, Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu
Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.
Lời cam đoan Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị Mở đầu
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Địa điểm, thời gian, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Kết luận và kiến nghị Tài liệu tham khảo
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm Biến đổi khí hậu
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam: “BĐKH là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo” [3]
Theo quan điểm của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), BĐKH là sự vận động bên trong hệ thống khí hậu, do những thay đổi kết cấu hệ thống hoặc trong mối quan hệ tương tác giữa các thành phần dưới tác động của ngoại lực hoặc do hoạt động của con người.
Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn. Ví dụ, ấm lên hay lạnh đi. Sự biến đổi về trạng thái khí hậu đó xảy ra do các quá trình tự nhiên hoặc do con người gây ra đối với các thành phần khí quyển.
Biến đổi khí hậu mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và nước biển dâng hiện nay, là thách thức nghiêm trọng nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI. BĐKH đã thực sự tác động đến mọi lĩnh vực, bao gồm tài nguyên thiên nhiên, môi trường, kinh tế - xã hội và sức khỏe con người. Thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan và các hiện tượng khí hậu cực đoan như là hệ quả của BĐKH hiện đang hoành hành ngày càng nhiều và khốc liệt ở khắp mọi nơi trên thế giới. BĐKH tác động trực tiếp tới các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và được coi là thách thức lớn cho PTBV.
Thời tiết là trạng thái khí quyển tại một thời điểm và một địa điểm nhất định được xác định bằng tổ hợp các yếu tố: nhiệt độ, áp suất, độ ẩm, tốc độ gió, mưa, mây…
Khí hậu - được Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) định nghĩa là trung bình theo thời gian của thời tiết (thường là 30 năm)
Khả năng bị tổn thương do tác động của BĐKH là mức độ mà một hệ thống (tự nhiên, xã hội, kinh tế) có thể bị tổn thương do BĐKH, hoặc không có khả năng thích ứng với những tác động bất lợi của BĐKH.
Ứng phó với BĐKH là các hoạt động của con người nhằm thích ứng và giảm nhẹ BĐKH.
Thích ứng với BĐKH là sự điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm khả năng bị tổn thương do dao động và biến đối khí hậu hiện hữu hoặc tiềm tàng và tận dụng các cơ hội do nó mang lại.
Giảm nhẹ BĐKH là các hoạt động nhằm giảm mức độ hoặc cường độ phát thải khí nhà kính.
1.1.2. Nguyên nhân của BĐKH
Biến đổi khí hậu có thể do hai nguyên nhân: các quá trình tự nhiên và sự tác động của con người. BĐKH xảy ra trong quá khứ là do các nguyên nhân tự nhiên nhưng BĐKH hiện nay là do con người.
Sau cuộc tranh luận kéo dài hơn 30 năm, cho đến nay, các nhà khoa học đã có sự nhất trí cao và cho rằng trong những thập kỷ gần đây, những hoạt động phát triển kinh tế
- xã hội với nhịp điệu ngày một cao trong nhiều lĩnh vực như năng lượng, công nghiệp, giao thông, nông - lâm nghiệp và sinh hoạt đã làm tăng nồng độ các khí gây hiệu ứng nhà kính (N2O, CH4, H2S và nhất là CO2) trong khí quyển, làm Trái đất nóng lên, làm biến đổi hệ thống khí hậu và ảnh hưởng tới môi trường toàn cầu (Al Gore, 2006) [43]
Thµnh phÇn khÝquyÓn:
Carbon Dioxide CO2 Các nguồn phát thải KHK
- N¨ ng l• î ng
- C«ng nghiÖp
- Giao th«ng
Methane CH4 - N«ng nghiÖp
- L©m nghiÖp
- Sinh ho¹ t
Nitrous Oxide NO2
H»ng ngµy cã 60
million tÊn CO2 th¶i vµo khÝquyÓn
1000 N¨ m 2000
Source: IPCC 2001
Hình 1.1. Sự gia tăng phát thải khí nhà kính trong thời gian gần đây
Tóm lại, nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự BĐKH, Nghị định thư Kyoto nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6.
- CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí
nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2 cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép.
- CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
- N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
- HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
- PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
- SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê.
1.1.3. Biểu hiện chính của BĐKH
Biểu hiện của BĐKH rất phức tạp, bao gồm các biểu hiệu chính như sau:
- Nhiệt độ trung bình, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu tăng lên;
- Lượng mưa thay đổi
- Mực nước biển dâng lên do sự tan băng ở các Cực và các đỉnh núi cao;
- Các thiên tai và hiện tượng thời tiết cực đoan (nắng nóng, giá rét, bão, lũ lụt, hạn hán...) xảy ra với tần suất, độ bất thường và c ó thể cả cường độ tăng lên [18].
1.1.4. Tác động của BĐKH
1.1.4.1. Đánh giá chung
BĐKH tác động lên tất cả các thành phần môi trường bao gồm cả các lĩnh vực của môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và sức khỏe con người trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, mức độ tác động của BĐKH có khác nhau: nghiêm trọng ở các vùng
có vĩ độ cao và ít hơn tại các vùng khác, sẽ lớn hơn ở các nước nhiệt đới, nhất là các nước đang phát triển công nghiệp nhanh ở châu Á. Trong đó, những người nghèo, những người ít góp phần gây ra BĐKH nhất thì lại phải chịu những thiệt hại sớm nhất và nghiêm trọng nhất về phát triển con người do BĐKH gây ra (Crutzen, 2005).
Theo dự đoán, nhiều thành phố của các quốc gia ven biển đang đứng trước nguy cơ bị nước biển nhấn chìm do mực nước biển dâng - hậu quả trực tiếp của sự tan băng ở Bắc và Nam Cực. Trong số 33 thành phố có quy mô dân số 8 triệu người vào năm 2015, ít nhất 21 thành phố có nguy cơ cao bị nước biển nhấn chìm toàn bộ hoặc một phần và khoảng 332 triệu người sống ở vùng ven biển và đất trũng sẽ bị mất nhà cửa vì ngập lụt.
Mức độ rủi ro cao về lãnh thổ bị thu hẹp do nước biển dâng theo thứ tự là Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Việt Nam, Inđônêsia, Nhật Bản, Ai Cập, Hoa Kỳ, Thái Lan và Philippin.
Nước biển dâng lên còn kèm theo hiện tượng xâm nhập mặn vào sâu hơn trong nội địa và sự nhiễm mặn của nước ngầm, tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và tài nguyên nước ngọt.
Tài nguyên nước và sản xuất nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo dự đoán, đến năm 2080, sẽ có thêm khoảng 1,8 tỷ người phải đối mặt với sự khan hiếm nước, khoảng 600 triệu người sẽ phải đối mặt với nạn suy dinh dưỡng do nguy cơ năng suất trong sản xuất nông nghiệp giảm.
Bên cạnh đó còn có khuynh hướng làm giảm chất lượng nước, sản lượng sinh học và số lượng các loài động, thực vật trong các hệ sinh thái nước ngọt, làm gia tăng bệnh tật, nhất là các bệnh mùa hè do vectơ truyền (IPCC 1998). Trong thời gian 20-25 năm trở lại đây, có thêm khoảng 30 bệnh mới xuất hiện. Tỷ lệ bệnh nhân, tỷ lệ tử vong của nhiều bệnh truyền nhiễm gia tăng, trong đó sẽ có thêm khoảng 400 triệu người phải đối mặt với nguy cơ bị bệnh sốt rét (Al Gore, 2006, Stern, 2007). [43]
Hình 1.2. Dự đoán ảnh hưởng của BĐKH tới các lĩnh vực theo sự gia tăng của nhiệt độ (Stern, 2007)
Số lượng và tổn thất do thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan gây ra tăng liên tục trong những thập kỷ vừa qua. Theo số liệu thống kê, thiệt hại về kinh tế do thay đổi thời tiết và lũ lụt đã tăng gấp 10 lần trong vòng 50 năm qua. Số nạn nhân của lũ lụt do ảnh hưởng của BĐKH trong 5 năm 1983-1987 là 31 triệu người, tăng lên đến 130 triệu người trong 5 năm của thập kỷ sau 1993-1997 (WWC, 2003; Hotz, 2006). Riêng cơn bão Mitch (1999) đã làm chết 11.000 ở trung Mỹ; cơn bão Katrina (2005) đã làm chết hơn 1.800 người ở hai bang ven biển phía Nam của Hoa Kỳ và gây tổn thất lên tới 300 tỷ USD.
Hình 1.3. Sự gia tăng số lượng và thiệt hại do thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan trong 4 thập kỷ vừa qua.
Bão Katrina ở miền nam nước Mỹ năm 2005 gây thiệt hại 108 tỉ đôla và giết chết khoảng 1.200 người. Cơn bão có tên đầu tiên của năm 2008 tại khu vực Bắc Ấn Độ Dương, bão Nargis tại đồng bằng châu thổ Irrawaddy, Myanma đã làm hơn
60.000 người chết (dự đoán có thể lên tới 100.000 người), 1.400 người bị thương và
37.000 người mất tích. Gần đây, Siêu bao
Sandy đã quét qua Bờ Đông nước My
đem theo mưa lớn, gió to và nước biển dâng cao có nơi tới 4 mét, tràn vào hệ thống tàu điện ngầm tại thành phố New York, làm một trạm điện bị phát nổ, hỏa hoạn cũng đã thiêu rụi 50 căn ngôi nhà . Từ 50 đến 60 triệu người dân Mỹ bi ̣ảnh hưởng
của bão, trong đó hơn 1 triêu
người ở các vùng đất thấp hoặc ven biển đã phải sơ
tán. Giao thông công côṇ g đã bị tê liệt ở nhiều bang . Theo phân tích của công ty IHS Global Insight, với mức thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 20 tỷ USD cộng với 10-30 tỷ USD thiệt hại về kinh doanh làm ăn, bão Sandy có thể đi vào lịch sử là cơn bão gây thiệt hại nhất cho nước Mỹ.
Theo Nicolas Stern (2007) – nguyên chuyên gia kinh tế hàng đầu của Ngân hàng Thế giới, thì trong vòng 10 năm tới, chi phí thiệt hại do BĐKH gây ra cho toàn thế giới ước tính khoảng 7.000 tỷ USD; nếu chúng ta không làm gì để ứng phó thì thiệt hại mỗi năm sẽ chiếm khoảng 5-20% GDP, còn nếu chúng ta có những ứng
phó tích cực để ổn định khí nhà kính ở mức 550 ppm tới năm 2030 thì chi phí chỉ còn khoảng 1% GDP.
1.1.4.2. Tác động của biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu
a) Tác động đến hệ vật lý
Từ 1970 đến nay, có thể do tác động của biến đổi về nhiệt độ toàn cầu đã gây nên biến đổi sau đây đến hệ vật lý:
- Gia tăng và mở rộng các hồ băng.
- Gia tăng phần đất nện trên các khu vực băng vĩnh cửu và - tuyết lở ở các vùng núi
- Gia tăng dòng chảy và dòng chảy sớm đạt đỉnh trên các dòng sông băng vào mùa xuân
- Các sông, hồ nóng lên và do đó thay đổi cơ chế nhiệt và cả chất lượng nước
b) Tác động đến hệ sinh thái
Do tác động của biến đổi khí hậu hệ sinh thái có những biến đổi sau đây: Chỉ thị vật hậu mùa xuân đến sớm hơn.
Lục hóa trong mùa xuân đến sớm hơn.
Gia tăng các quần cư động vật trôi nổi trên các biển vĩ độ cao và các hồ trên cao. Các loài cá di trú sớm hơn trên các sông.
Với mức tăng nhiệt độ 1,5 – 2,50C dự kiến có những biến đổi phổ biến về
cấu trúc và chức năng của các loài di trú sinh thái các đới địa lý cùng với những hậu quả tiêu cực khác.
Quá trình a xít hóa đại dương chắc chắn tác động tiêu cực đến tổ chức và cấu trúc của các rặng san hô.
c) Một số tác động khác
- Nồng độ CO2 trong khí quyển tăng lên dẫn đến độ a xít hóa của đại dương tăng lên. Độ pH trung bình của nước biển gần mặt giảm đi 0,1 đơn vị kể từ thời kỳ tiền công nghiệp.
- Nhiệt độ tăng ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nông – lâm nghiệp ở các vĩ độ cao và các vấn đề chăm sóc y tế Châu Âu.
- Nước biển dâng tác động đến vùng đất ngập nước, rừng ngập mặn và gây ra ngập lụt bờ biển trên một số khu vực.