những khảo sát, tổng kết đánh giá quá trình thực hiện LDN của các cơ quan Nhà nước cũng như các tổ chức tiến hành đánh giá hoạt động kinh doanh và ĐKKD của các doanh nhân Việt Nam. Các báo cáo đánh giá hoạt động ĐKKD của doanh nghiệp Việt Nam đã vạch ra nhiều thiếu sót và gợi mở cho các nhà làm luật Việt Nam nhiều vấn đề cần phải được thay đổi.
Điển hình trong số đó là cuộc nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp cùng chương trình phát triển Liên Hợp Quốc UNDP về LDN được tiến hành năm 2004, Cuộc khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp cùng với trương trình phát triển kinh tế tư nhân MPDF năm 2005; chương trình nghiên cứu về khu vực kinh tế phi chính thức của Ngân Hàng Thế Giới năm 2003. Báo cáo đánh giá sáu năm thi hành LDN của CIEM và Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức. Văn phòng Quốc Hội và Chương trình phát triển kinh tế tư nhân có những tổng hợp phân tích, đánh giá và bình luận về Dự án LDN thống nhất và Dự án Luật đầu tư chung… Quá trình thi hành LDN cũng được giám sát và đánh giá thường xuyên của Tổ công tác thi hành LDN. Bên cạnh đó còn nhiều những bài viết trong các luận văn, luận án; các báo, tạp chí chuyên ngành về quản lý nhà nước, chính sách pháp luật, chính sách kinh tế. Chẳng hạn Luật văn của Nguyễn Thị Loan thực hiện tại Khoa Luật năm 200 về quyền tự do kinh doanh; bài phát biểu của bà Phạm Chi Lan về Giấy phép kinh doanh đủ tốt và đủ xấu để cải cách trên báo Tuổi trẻ [37]; bài của Nguyên Tấn về Tên doanh nghiệp, sao khó thế ! trên Thời báo kinh tế Sài gòn [31, tr 11]…
Nhìn chung các bài viết trong những công trình nghiên cứu cũng như trong các báo, tạp chí đã có nhiều tìm tòi, đánh giá về chính sách đối với hoạt động ĐKKD của các doanh nghiệp. Các công trình nghiên cứu cũng đã khái quát được bức tranh tương đối thực tế về hoạt động ĐKKD của doanh nghiệp và của cơ quan nhà nước trên cơ sở những số liệu khảo sát thực tế. Các công
trình cũng đã vạch ra được những bất cập trong hệ thống pháp luật và những yếu kém trong tổ chức bộ máy về ĐKKD, cũng như những yếu kém trong thực thi pháp luật về ĐKKD. Tuy nhiên, những công trình nêu trên mới phần nào phác hoạ được những thành công hay hạn chế của LDN nói chung khi được áp dụng trong thực tiễn mà chưa đưa ra được những đánh giá và yêu cầu riêng đối với pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Những bài viết chưa đưa ra được những yêu cầu có hệ thống đối với chính sách pháp luật về ĐKKD và hướng hoàn thiện chính sách pháp luật về ĐKKD phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là những vấn đề mới phát sinh trong giai đoạn hiện nay về điều kiện ĐKKD, thẩm quyền của cơ quan ĐKKD, quản lý thông tin ĐKKD và những rào cản đối với các doanh nhân trong suốt quá trình tiến hành ĐKKD.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Bản luận văn này được thực hiện với mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận của hoạt động ĐKKD, phân tích thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật về vấn đề này trong tương lai.
Bản luận văn cũng giành nhiều nội dung để tìm hiểu về những nguyên nhân thúc đẩy hay cản trở các doanh nhân ĐKKD theo LDN, những nguyên nhân thúc đẩy các cán bộ, công chức áp dụng đúng đắn và sáng tạo các quy định của LDN về ĐKKD. Thông qua kết quả nghiên cứu, bản luận văn này cũng có mong muốn đưa ra những khuyến nghị cho cơ quan nhà nước nên làm gì và làm như thế nào trước những bất cập trong xây dựng và thực thi các quy định pháp luật này.
Có thể bạn quan tâm!
- Đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp Việt Nam - Thực trạng và một vài kiến nghị - 1
- Những Nguyên Tắc Cơ Bản Của Pháp Luật Về Đăng Ký Kinh Doanh
- Pháp Luật Về Đăng Ký Kinh Doanh Mang Bản Chất Tư Pháp
- Điều Kiện Chung Về Đăng Ký Kinh Doanh
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các quy định của pháp luật và chính sách hiện hành của Nhà nước về ĐKKD. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu một số nhân tố có tác động đến hoạt động ĐKKD của doanh nhân, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, công chức nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là phân tích và đánh giá những vấn đề liên quan đến hoạt động ĐKKD của doanh nhân bao gồm những yếu tố tác động đến doanh nhân trong quá trình doanh nhân thực hiện các quy định của pháp luật về ĐKKD. Bên cạch việc tập trung nghiên cứu hoạt động ĐKKD theo quy định của LDN năm 1999 và năm 2005, luận văn cũng giành một phần nội dung để phân tích hoạt động ĐKKD của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài, Luật doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật hợp tác xã.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong bản luận văn này tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và đối chiếu; phương pháp tổng hợp; phương pháp đánh giá. Tất cả những phương pháp được sử dụng đều dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở tổng kết thực tiễn của hơn sáu năm thi hành LDN, thực tiễn áp dụng luật này sẽ là cơ sở để tác giả đi sâu làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động ĐKKD áp dụng cho các chủ thể kinh doanh. Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những thông tin có giá trị với lý luận và thực tiễn. Những khuyến nghị được đưa ra trong luận
văn sẽ có giá trị tham khảo hữu ích đối với cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức nhà nước những người trực tiếp vận dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn và các doanh nhân, những người chịu tác động trực tiếp từ những quy định này.
7. Kết cấu và nội dung của luận văn
Luận văn được bố cục thành ba chương và phần kết luận, mỗi chương được viết nhằm giải quyết từng nhiệm vụ cụ thể. Nội dung các chương có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo cơ sở để hoàn thành mục đích nghiên cứu của cả luận văn. Kết thúc mỗi chương là kết luận của từng chương, phần cuối cùng là kết luận của luận văn.
Chương 1. Cơ sở lý luận về ĐKKD và pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam
Trong chương này tác giả nêu và phân tích những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận về ĐKKD và pháp luật về ĐKKD. Cụ thể chương này tác giả tập trung phân tích khái niệm và bản chất của ĐKKD và pháp luật ĐKKD. Mục đích, ý nghĩa và các nguyên tắc của các quy định pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam trong điều kiện hiên nay.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về ĐKKD theo LDN ở Việt Nam hiện
nay
Trong chương này tác giả tập trung tìm hiểu nội dung pháp luật về
ĐKKD, thực trạng ban hành và thực thi pháp luật về ĐKKD hiện nay. Phát hiện những tồn tại, bất cập của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về ĐKKD, từ đó xác định những nhân tố tác động đến thực trạng pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ĐKKD trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam
Trên cơ sở những mặt hạn chế của pháp luật về ĐKKD của Việt Nam hiện nay. Tác giả đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ĐKKD cũng như việc áp dụng pháp luật về ĐKKD trong thời gian tới.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
1.1. Đăng ký kinh doanh một phương thức thực hiện quyền tự do kinh doanh
Đối với mỗi người kinh doanh gắn liền với lao động để mưu sinh, hoạt động kinh doanh vì thế mà khó phân biệt với lao động kiếm sống, tạo thu nhập. Chính vì vậy nếu nói kinh doanh là quyền tự do gắn liền với quyền cơ bản của con người cũng không có gì sai lệch. Trong xã hội hiện đại, quyền tự do kinh doanh ngày càng được coi trọng, nhưng cũng trong xã hội này, càng ngày càng có nhiều những quy định hạn chế quyền tự do kinh doanh. Những hạn chế nếu có theo chúng tôi cũng rất hợp lý và nhân bản. Bởi trong thời đại mà một ý tưởng cũng có thể mang lại rất nhiều tiền thì những quy định bảo vệ ý tưởng hợp pháp của người này và hạn chế quyền của người khác là có thể chấp nhận được. Mặt khác, xã hội và pháp luật cần phải có sự giám sát và quản lý những chủ thể được ĐKKD để hạn chế những tác động không mong muốn của những chủ thể này tới xã hội và quyền tự do kinh doanh của các chủ thể khác. ĐKKD vì thế mà là nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh muốn được tự do kinh doanh hợp pháp dưới những quy mô và hình thức mà pháp luật quy định. Do đó, xét ở khía cạnh những quyền và lợi ích mà chủ thể
ĐKKD được hưởng sau khi ĐKKD so với những chủ thể chưa hoặc không ĐKKD thì ĐKKD được nhìn nhận như là một phương thức thực hiện quyền tự do kinh doanh.
Ở Việt Nam công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992). Trong đó quyền tự do trong việc thành lập doanh nghiệp, hộ kinh doanh đã được LDN năm 1999 quy định tại Điều 13 “Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam …”, quy định này vẫn tiếp tục được kế thừa trong LDN năm 2005. Theo quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do kinh doanh và quyền ĐKKD thì về cơ bản kinh doanh là quyền tự do nhưng ĐKKD là nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh. Để được kinh doanh dưới những quy mô và hình thức theo quy định, doanh nhân có nghĩa vụ phải ĐKKD. Vì vậy, ĐKKD vừa là nghĩa vụ của doanh nhân vừa là một phương thức để doanh nhân thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình.
1.2. Vài nét về lịch sử pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam
Khi nhìn lại lịch sử pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam, chúng ta cũng không hy vọng học hỏi được nhiều từ một xã hội không coi trọng thương mại và pháp luật. Trong lịch sử hàng nghìn năm phong kiến, cũng giống như nền ngoại thương, các thiết chế tổ chức kinh doanh và các quy định về ĐKKD cũng rất mờ nhạt. Một xã hội “dĩ nông vi bản” không coi trọng thương nhân và thương mại đã không tạo cho xã hội nhiều điều kiện thuận lợi để tổ chức kinh doanh. Các quy định hiếm hoi mà lịch sử ghi nhận được về hoạt động ĐKKD trong truyền thống đó là dưới thời Minh Mạng, các phường, hội, ty (còn được gọi là cuộc) do nhiều gia đình hợp thành nếu có mười người trở lên, tự chọn ra người lãnh đạo (cuộc trưởng) và được quan Bố chánh cho phép
hoạt động thì hàng năm phải trình quan tỉnh một bản hộ tịnh gồm tên, ngày sinh và quê quán của những người trong cuộc [25, tr 62]. Như vậy, một thứ sơ khai của ĐKKD đã hình thành, mục đích chính là để quản lý thuế và các nghĩa vụ của cuộc [38, tr 238].
Đăng ký kinh doanh thời Pháp thuộc cũng không có nhiều quy định cho chúng ta tham khảo bởi thời kỳ này pháp luật chủ yếu ban bố chế độ đặc quyền kinh doanh và khai thác tài nguyên cho người Pháp. Pháp luật kinh doanh và ĐKKD thời kỳ này cũng không được mở rộng và khuyến khích cho mọi người dân trong xã hội.
Khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành những quy định đầu tiên về ĐKKD với mục đích tập thể hoá và kế hoạch hoá nền sản xuất của miền Bắc. Do đó, các quy định về ĐKKD chủ yếu tập trung vào phát triển nền sản xuất tập thể, kinh tế cá thể và kinh tế ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển. Trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1986 Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản về ĐKKD. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật về ĐKKD trong giai đoạn này chủ yếu được ban hành dưới hình thức văn bản dưới luật, trong đó có sự phân biệt rất rõ ràng thủ tục ĐKKD giữa hình thức đơn vị kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và cá thể ngoài quốc doanh. Các đơn vị kinh tế quốc doanh được ĐKKD khá đơn giản (khi có quyết định thành lập), còn các đơn vị kinh tế tập thể và cá thể thủ tục sẽ phức tạp hơn. Nhìn chung, các quy định về ĐKKD thời kỳ này mang nặng tư duy quản lý kinh tế cũ, thiếu tính thống nhất và những nội dung chủ yếu của một hệ thống ĐKKD hiệu quả.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể chế hóa mạnh mẽ quyền tự do kinh doanh và tổ chức kinh doanh của tổ chức, cá nhân trong và ngoài quốc doanh. Cơ sở pháp lý đầu tiên khẳng định tư tưởng này đó là Luật công ty và LDN tư nhân năm 1990. Cũng từ đây,
chế định ĐKKD đã có những bước phát triển mới trên cơ sở những quy định của luật và các quy định hướng dẫn thi hành hai đạo luật này.
Tuy có nhiều điểm tiến bộ so với những quy định về ĐKKD trước đó nhưng những quy định về ĐKKD trong giai đoạn này còn rất nhiều điểm còn hạn chế. Để các quy định pháp luật về ĐKKD thực sự là động lực khuyến khích toàn dân kinh doanh và thúc đẩy nền kinh tế phát triển thì pháp luật về ĐKKD cũng như cách thức thực hiện các quy định này phải có sự thay đổi căn bản trong tình hính mới của đất nước.
1.3. Khái niệm đăng ký kinh doanh và pháp luật đăng ký kinh doanh
1.3.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh
Đăng ký kinh doanh là một thuật ngữ khá mới trong hệ thống thuật ngữ luật học ở nước ta. Thuật ngữ ĐKKD xuất hiện lần đầu tiên trong Luật công ty năm 1990 và tiếp tục được sử dụng trong các văn bản pháp luật về tổ chức kinh doanh sau này. LDN năm 1999 và LDN năm 2005 về cơ bản mới chỉ quy định ĐKKD như là một chế định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh mà chưa có quy định về thuật ngữ ĐKKD.
Thuật ngữ ĐKKD được ghép từ hai từ ghép “đăng ký” và “kinh doanh”. Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt [47, tr 60], đăng ký được hiểu là “ghi vào sổ của cơ quan quản lý để chính thức được công nhận cho hưởng quyền lợi hay làm nghĩa vụ”. Kinh doanh theo giải thích từ ngữ tại khoản 2 Điều 4 của LDN năm 2005 là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Trên cơ sở các quy định của LDN, có thể khẳng định ĐKKD là nghĩa vụ của các chủ thể muốn kinh doanh và của các cơ quan quản lý nhà nước về