chúng bị quân dân nơi đây đập tan trước đó. Ở phía Bắc tỉnh, nơi phong trào cách mạng mạnh địch chú trọng “tìm diệt” kết hợp với “bình định”. Còn ở phía Nam tỉnh địch tập trung “bình định”. Đông – Xuân 1966 – 1967 địch mở 100 trận càn quét lớn, có 2 trận trên 1 sư đoàn kết hợp với các phương tiện chiến tranh hiện đại kể cả B52 tấn công vào căn cứ Núi Bà và vùng Đông Bắc Phù Cát, Đông Nam Phù Mỹ. Chúng bố trí đội hình vòng trong vòng ngoài phối hợp gây rất nhiều khó khăn cho cách mạng tỉnh. Cùng với những hành động khốc liệt trong “tìm diệt”, địch cũng sử dụng mọi chiêu thức thâm độc để thực hiện cho được “bình định”. Điển hình là biện pháp phá hủy tận gốc cơ sở kinh tế, triệt nguồn sống của dân, kết hợp với sử dụng phi pháo, chất hóa học san bằng các làng mạc, thôn xóm hòng lùa dân vào các khu dồn. Trong bối cảnh đó, Tỉnh ủy khẳng định: “nhiệm vụ chống càn quét, chống xúc tát dân, giữ vững phong trào phía Bắc, khôi phục phong trào phía Nam là nhiệm vụ trọng tâm số một của Đảng bộ”.[11; tr142] Trên cơ sở nhiệm vụ trọng tâm này, Tỉnh ủy cũng vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cụ thể đối với các huyện, các lực lượng của tỉnh.
Trong lúc địch đang triển khai mạnh mẽ kế hoạch mùa khô 1966 - 1967 ở Bình Định, từ ngày 9 đến ngày 21 tháng 5 năm 1967 Hội nghị đại biểu tỉnh Đảng bộ được tổ chức. Hội nghị nhận định những âm mưu, thủ đoạn và thất bại của địch, chỉ ra những thuận lợi, khó khăn của ta, từ đó đề ra nhiệm vụ và phương châm chung: “Tập trung lực lượng toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân, đạp bằng mọi khó khăn trở ngại xông lên tấn công và phản công địch quyết liệt, quyết đánh bại âm mưu “bình định” lấn chiếm cả tỉnh ta của địch, quyết giữ vững vùng giải phóng, nông thôn đồng bằng và miền núi, khôi phục nhanh chóng phong trào phía nam, chuyển mạnh phong trào thị xã, thị trấn và vùng xung yếu, tích cực tham gia sản xuất và động viên nhân tài vật lực, bảo đảm yêu cầu cao nhất cho mọi hoạt động của Đảng. Gấp rút tăng cường thực lực vũ trang, chính trị, kinh tế của ta, quyết tâm đẩy mạnh đấu tranh 2 chân, giáp công 3 mũi tiêu diệt và tiêu hao một bộ
phận sinh lực quan trọng của Mỹ, chư hầu Nam Triều Tiên và quân ngụy, nhanh chóng chuyển biến thật mạnh mẽ về tư tưởng và tổ chức, chuyển mạnh lên thế tấn công đều khắp nhằm tạo điều kiện và tranh thủ thời cơ phối hợp cùng toàn khu toàn miền, tiến lên giành thắng lợi to lớn nhất trong thời gian tới, đồng thời vẫn chuẩn bị cơ sở và điều kiện đánh thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài”.[132; tr11]
Để thực hiện được mục tiêu trên, trong các mặt công tác cụ thể, Tỉnh ủy đề ra những mục tiêu và yêu cầu cụ thể. Chiến tranh du kích tiếp tục được xem trọng. Nghị quyết nhấn mạnh cần: “kết hợp tác chiến tập trung với tác chiến du kích…đẩy mạnh chiến tranh du kích đều khắp trên các khu vực, đặc biệt khu vực có căn cứ, sau lưng địch, ngay ở những vùng xung yếu như đường số 1, 6, 19”.[132; tr13]
Với tinh thần này của Nghị quyết Đảng bộ tỉnh, rõ ràng chiến tranh du kích đã và đang giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong tiêu diệt địch. Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu phong trào chiến tranh du kích cần đạt được trong thời gian tới: “tổ chức và phát triển phong trào thi đua bắn máy bay và diệt cơ giới địch thật rộng rãi trong du kích và bộ đội địa phương. Thường xuyên mở từng chiến dịch của du kích trong từng địa bàn hoặc chung trong cả tỉnh nhằm đạt cho được 4 cao điểm của phong trào du kích là: bắn rơi nhiều máy bay địch; đánh giao thông diệt nhiều cơ giới địch; đánh thọc sâu phá rối liên tục hậu phương địch (diệt nhiều lực lượng trực tiếp kèm kẹp quần chúng); đánh và diệt nhiều biệt kích…phát huy vai trò của du kích mật và du kích đặc công”.[132; tr13, 14]
Về xây dựng lực lượng du kích, Tỉnh ủy chỉ đạo: “ra sức phát triển và tăng cường lực lượng du kích đạt tỷ lệ 6% dân số đồng bằng và 12% dân số miền núi, tăng thành phần nữ du kích lên 50% ở đồng bằng và 24% ở miền núi”.[132; tr15]
Hội nghị tỉnh ủy mở rộng tháng 11 năm 1967 trên cơ sở đánh giá toàn diện về địch và ta, trước những hành động tàn bạo, hung hăng của địch, Hội nghị dự đoán địch có thể tiếp tục mở kế hoạch mùa khô 1967 - 1968. Vì vậy nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu lúc này vẫn là: công kích và khởi nghĩa trên toàn chiến trường bằng 3 mũi giáp công phối hợp với toàn khu và toàn miền hoàn thành nhiệm vụ trong Xuân 1968. Trong công tác cụ thể về mặt đấu tranh vũ trang nhằm tiêu diệt tối đa lực lượng địch, Nghị quyết đặc biệt quan tâm chú trọng tới phát triển phong trào du kích. “Đẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh đến mức cao hơn bao giờ hết và xây dựng thôn xã chiến đấu rộng khắp thành thế liên hoàn vững chắc sát nách thị xã, thị trấn, xung quanh căn cứ, dọc trục giao thông và các địa bàn cơ động nhằm liên tục tấn công bao vây địch phục vụ cho tiêu diệt lớn”. [133; tr11] Theo tinh thần của nghị quyết tháng 11 năm 1967, chiến tranh du kích trở thành mắt khâu quan trọng trong tiêu diệt sinh lực địch. Đóng vai trò mở đường cho các lực lượng vũ trang tiến lên tiêu diệt địch quy mô lớn. Tuy nhiên, để đẩy mạnh phong trào du kích thì ngoài việc nâng cao ý thức trách nhiệm của quần chúng nhân dân về chiến tranh toàn dân, cũng cần chú trọng tới công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong trào du kích. Hội nghị tỉnh ủy mở rộng tháng 11 năm 1967 cũng đặt ra yêu cầu cho các chi bộ du kích – lực lượng lãnh đạo nòng cốt phong trào chiến tranh du kích cần tổ chức học tập kinh nghiệm đấu tranh du kích của toàn quân khu để về chỉ đạo cụ thể du kích chiến tranh tại Bình Định. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang địa phương nhằm nâng cao hiệu quả diệt địch, đồng thời bảo vệ lực lượng tốt nhất trong quá trình đấu tranh.
Công tác xây dựng lực lượng du kích tiếp tục được nhấn mạnh lại trong Nghị quyết tháng 11 năm 1967 với những đòi hỏi cấp bách hơn: “khẩn trương xây dựng lực lượng tập trung, du kích xã thôn, du kích mật và hợp pháp, các đội quyết tử mau lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng kịp phục vụ cho công kích và khởi nghĩa”. [133; tr11] Trong vùng địch kiểm soát cần xây dựng du kích mật, tự vệ mật. Ở vùng ta làm chủ ngoài phát triển du kích cần phát triển rộng rãi dân quân. Cần coi trọng trang bị cho du kích “xây dựng cơ sở sản xuất vũ khí thô sơ cho du kích đến tận xã thôn hoặc cướp vũ khí của địch trang bị cho ta, củng cố cơ sở sản xuất của tỉnh để
kịp phục vụ yêu cầu cho phong trào du kích chiến tranh”.[133; tr18]
Có thể bạn quan tâm!
- Dân Cư, Truyền Thống Yêu Nước Và Cách Mạng.
- Quá Trình Lãnh Đạo Chỉ Đạo Phong Trào Chiến Tranh Du Kích Của Đảng Bộ Tỉnh (Từ Năm 1965 Đến Năm 1968)
- Quá Trình Lãnh Đạo, Chỉ Đạo, Tổ Chức Thực Hiện
- Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975 - 7
- Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích từ năm 1965 đến năm 1975 - 8
- Đảng Bộ Tỉnh Bình Định Tăng Cường Lãnh Đạo Phong Trào Chiến Tranh Du Kích Góp Phần Kết Thúc Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước (1969-1975)
Xem toàn bộ 163 trang tài liệu này.
Bên cạnh việc quan tâm tới số lượng, trang bị cho du kích, Tỉnh ủy cũng đề cao việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ du kích bằng cách đẩy mạnh giáo dục tư tưởng, chính trị cho đội ngũ du kích, tăng tỷ lệ đoàn viên, đảng viên trong du kích nhất là ở các địa bàn xung yếu.
Cuối năm 1967 đánh dấu sự thất bại thê thảm của quân Mỹ và đồng minh. Sau 2 kế hoạch mùa khô của địch chứng tỏ rằng, địch càng hung hăng, tàn bạo bao nhiêu thì chúng gánh chịu hậu quả càng thảm hại bấy nhiêu. Dù đã dốc một lực lượng quân thiện chiến đông đảo với những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, Mỹ vẫn bị động, lúng túng trên chiến trường miền Nam Việt Nam, còn quân đội Việt Nam cộng hòa lúc này thực sự bi đát, hoài nghi về sức mạnh Mỹ. Ngược lại với chiều hướng ảm đạm của Mỹ, cách mạng miền Nam đến thời điểm này đã có sự trưởng thành vượt bậc. Chúng ta vẫn nắm quyền chủ động trên toàn miền Nam Việt Nam.
Trước những thắng lợi to lớn giành được trong đợt phản kích 2 kế hoạch mùa khô của Mỹ, Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tấn công nổi dậy Xuân 1968 với chủ trương “động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ở cả hai miền Nam Bắc, đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.
Ở Bình Định, lớp chỉnh huấn chủ trương của Trung ương, Khu ủy và Tỉnh
ủy được tổ chức, công tác chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công nổi dậy tết Mậu Thân 1968 cũng gấp rút triển khai. Theo đó, Ban chỉ đạo Mặt trận Bình Định do đồng chí Nguyễn Xuân Hữu - ủy viên thường vụ Khu ủy làm Trưởng ban và Ban chỉ đạo Quy Nhơn được thành lập do đồng chí Tô Đình Cơ – Phó bí thư Tỉnh ủy làm Trưởng ban.
Tại cuộc họp Ban cán sự ngày 7, 8 tháng 6 năm 1968, trên cơ sở phân tích động thái của địch, Nghị quyết của Tỉnh ủy tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ cần phải
làm là: “công kích liên tục, ngày càng mạnh mẽ (kết hợp với khởi nghĩa vũ trang quần chúng và binh vận), tiêu diệt và làm tan rã cơ bản ngụy quân, ngụy quyền, gây thiệt hại nặng cho quân Mỹ…đi đôi với tác chiến liên tục phải hết sức chú ý xây dựng ba thứ quân lớn mạnh nhanh chóng”.[101; tr3]
Trên tinh thần chỉ đạo chung này của Tỉnh ủy, việc xây dựng, phát triển lực lượng du kích và chiến tranh du kích là một trong những nội dung quan trọng của tỉnh trong giai đoạn hiện tại để thực hiện mục tiêu tiêu diệt địch.
Tóm lại, tương ứng với sự thay đổi của tình hình cụ thể, căn cứ vào sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Khu ủy khu V, Đảng bộ tỉnh Bình Định nhanh chóng đưa ra những chủ trương phù hợp để giải quyết nhiệm vụ trước mắt từng bước hướng tới giải quyết nhiệm vụ lâu dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong cuộc chiến chống lại một đội quân xâm lược nhà nghề có lực lượng thiện chiến đông đảo, trang bị vũ khí hiện đại với những âm mưu xảo quyệt mà lực lượng của chúng ta còn nhỏ bé, trang bị thiếu thốn, vũ khí thô sơ thì việc triệt để sử dụng chiến thuật chiến tranh du kích có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và thực sự cần thiết. Vì vậy ở hầu hết các chủ trương Đảng bộ tỉnh đều đề cập đến và có những nội dung chỉ đạo cụ thể về chiến tranh du kích ở những mức độ khác nhau làm bùng lên phong trào chiến tranh du kích rộng lớn, mạnh mẽ trên khắp các địa bàn tỉnh trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
1.2.3. Phong trào chiến tranh du kích ở Bình Định
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy về đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, công tác chuẩn bị cho hoạt động du kích được triển khai một cách khẩn trương. Lực lượng vũ trang địa phương nhanh chóng được xây dựng, tổ chức và từng bước kiện toàn. Tiểu đoàn 50 chủ lực tỉnh được bổ sung quân số, trang bị vũ khí theo quy định, trở thành tiểu đoàn chủ lực mạnh của tỉnh. Ngày 19 tháng 5 năm 1965 Ban chỉ huy Tỉnh đội quyết định rút 3 đại đội trực thuộc tỉnh hợp nhất với đại đội hỏa lực trợ chiến của Quân khu, thành lập Tiểu đoàn 52. Tiểu đoàn 52 do đồng
chí Thái Sơn làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đinh Bá Lộc làm chính trị viên. Đại đội đặc công Đ10 được phiên chế thành 5 trung đội. Ở các huyện đồng bằng, mỗi huyện xây dựng một đại đội tập trung. Ở các huyện miền núi, mỗi huyện xây dựng 2 trung đội. Mỗi xã có 1 trung đội du kích. Từ giữa năm 1965 tất cả các đơn vị đều ổn định tổ chức, biên chế, huấn luyện bổ sung. Các đại đội, tổ, đội chuyên môn gồm công binh, trinh sát, đặc công nước, săn máy bay được kiện toàn. [46; tr279] Lực lượng dân quân du kích Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước được hình thành khá sớm và không ngừng tăng lên về mặt số lượng và chất lượng. Từ một lực lượng du kích nhỏ bé đầu tiên là du kích làng Tơlok, Tơlek của huyện Vĩnh Thạnh được thành lập năm 1959, đến năm 1965 toàn tỉnh có 16.347 du kích, tự vệ. Trong đó vùng đồng bằng có 14.269 du kích chiếm 3,3% dân số đồng bằng, miền núi có 2.079 du kích chiếm 11,5% dân số miền núi. Du kích cấp xã có 3.919 người, du kích cấp thôn có 11.709 người, du kích mật có 719 người. Nữ du kích có
3.048 người chiếm 18,7 % tổng du kích. 382 du kích là đảng viên chiếm 2,3% tổng du kích. 483 du kích là đoàn viên chiếm 6,0% tổng du kích. [38; 4] Đội du kích thiếu niên bắt đầu được quan tâm xây dựng, thành lập sớm nhất là đội du kích thiếu niên thôn ở huyện Phù Cát gồm có 129 em.
Lực lượng nòng cốt lãnh đạo trong du kích cũng ngày càng được xem trọng.
Ở miền núi trung bình 1 đoàn viên lãnh đạo 23 quần chúng. Ở đồng bằng trung bình 1 đoàn viên lãnh đạo 28 quần chúng.
Công tác giáo dục đào tạo cán bộ du kích được quan tâm thường xuyên. Năm 1965 tỉnh và huyện đã mở 279 lớp bồi dưỡng đào tạo cho cán bộ xã, thôn và du kích xã thôn (trong đó tỉnh mở 2 lớp, tỉnh phối hợp với huyện mở 13 lớp, huyện mở 35 khóa, các xã trong 10 huyện mở 261 lớp). Thông qua các lớp huấn luyện, cán bộ và du kích thấy được vai trò quan trọng của chiến tranh du kích, được tập huấn các chiến thuật du kích và cách sử dụng vũ khí.v.v.
Trang bị vũ khí cho du kích là một trong những nội dung không thể thiếu trong
công tác chuẩn bị chiến tranh. Ngay từ đầu cuộc chiến Tỉnh đội đã quán triệt phương châm tiêu diệt địch lấy vũ khí trang bị cho mình, khuyến khích nhân dân, du kích tự vệ tự sáng tạo vũ khí. Bên cạnh đó, cách mạng Bình Định cũng nhận được sự chi viện vũ khí từ miền Bắc qua các con đường 559 trên bộ và 559 trên biển. Để tăng cường sức chiến đấu cho các lực lượng vũ trang ở Bình Định trong cuộc đọ sức trực tiếp với bọn lính Mỹ và đồng minh, cuối năm 1964 chuyến hàng chi viện vũ khí đầu tiên của miền Bắc với hơn 30 tấn vũ khí đã cập bến Lộ Diêu (Hoài Mỹ, Hoài Nhơn). Năm 1965 tính trung bình 6 du kích có 1 khẩu súng.
Về xây dựng thôn xã chiến đấu: chấp hành chỉ thị của Thường vụ Tỉnh ủy và Hội nghị du kích chiến tranh của tỉnh tháng 6 năm 1965, học tập Chỉ thị phát động phong trào du kích chiến tranh tháng 2 năm 1965, phong trào du kích nói chung, công tác xây dựng thôn xã chiến đấu nói riêng có chuyển biến hơn trước. Căn cứ vào 6 tiêu chuẩn của 1 xã chiến đấu, nhiều thôn, xã ở các huyện đều chú trọng rào làng chiến đấu, cải biến địa hình, dựng chướng ngại vật, đào giao thông hào v.v. đảm bảo cho du kích có điều kiện độc lập tác chiến.
Cuối năm 1965 đầu năm 1966 địch triển khai kế hoạch mùa khô 1965 – 1966, thực hiện Nghị quyết số 268/NQ của cuộc họp ban cán sự mở rộng và Nghị quyết Hội nghị tỉnh ủy mở rộng (tháng 5 năm 1966) quân và dân tỉnh Bình Định dốc sức lao vào cuộc chiến tiêu diệt kẻ thù bảo vệ quê hương. Ba cuộc hành quân “tìm diệt” lớn của địch cùng hàng loạt các cuộc hành quân, lùng sục khác của chúng đã gây nhiều thiệt hại lớn cho nhân dân Bình Định. Từ giữa năm 1965 đến giữa năm 1966, địch đã mở 1.412 cuộc càn, hàng ngàn cuộc ném bom, bắn pháo, giết hại 6.148 người, đốt cháy 37.512 nóc nhà, cướp, đốt 3.505 tấn gạo, phá hàng ngàn tấn hoa màu, hàng vạn cây ăn quả, bắt 150.000 người vào các khu dồn dân. [55; tr115] Một số nơi cách mạng đã mất quyền kiểm soát. Tình hình này ảnh hưởng trực tiếp tới lực lượng du kích và hoạt động của du kích trên địa bàn tỉnh. Cùng với sự thu hẹp vùng giải phóng của ta thì lực lượng du kích cũng thu hẹp lại.
Năm 1966 toàn tỉnh Bình Định còn khoảng 11.314 du kích, tự vệ. Trong đó lực lượng du kích ở đồng bằng có 9.233 người chiếm 3,44% dân số đồng bằng, lực lượng du kích ở miền núi 2.081 người chiếm 11,5% dân số miền núi. Du kích xã có
3.084 người. Du kích thôn có 7.509 người. Du kích mật có 721 người. Nữ du kích có 2.750 người, chiếm 24,3% tổng du kích. Có 671 du kích là đảng viên, chiếm 5,9% tổng du kích. 1.481 du kích là đoàn viên, chiếm 13,1% tổng du kích.
Như vậy, so với năm 1965 thì sang năm 1966 lực lượng du kích giảm, song tỉ lệ du kích trong tổng số dân vùng ta làm chủ thì không hề giảm sút. Điều đáng chú ý là năm 1966 lực lượng du kích vùng nông thôn, lực lượng du kích nữ và chất lượng du kích tăng lên đáng kể. Điều này chứng tỏ những chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh trong xây dựng lực lượng du kích trên địa bàn dần được hiện thực hóa nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của cuộc kháng chiến.
Thắng lợi trong phá kế hoạch mùa khô 1965 - 1966 của địch, sang mùa khô 1966 - 1967 toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Bình Định tiếp tục vùng lên với khí thế mới. Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị tỉnh ủy mở rộng tháng 11 năm 1967, phong trào du kích chiến tranh phát triển khá, trong điều kiện địch đánh phá liên tục và ác liệt, số lượng du kích có giảm nhưng chất lượng tăng. Tuy nhiên sự ngoan cố, tàn bạo của kẻ thù đã gây không ít khó khăn, tổn thất cho phong trào đấu tranh của tỉnh. Lực lượng vũ trang ba thứ quân giảm sút nghiêm trọng. Trung đoàn chủ lực chỉ còn vài trăm đồng chí, có tiểu đoàn còn chưa đầy 100 người. Cán bộ huyện xã và du kích các xã ở đông An Nhơn, đông bắc Tuy Phước còn rất ít, có xã như Phước Quang chỉ còn 1 du kích. Năm 1967 toàn tỉnh chỉ có 5.788 du kích, giảm hơn một nửa so với năm 1966. Mùa hè năm 1967, Tỉnh ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn 3 chủ trương lấy một bộ phận của sư đoàn lập những đơn vị nhỏ cỡ đại đội, luồn xuống khu vực đông Hoài Nhơn, đông Phù Mỹ cùng các lực lượng địa phương chống “bình định”, hỗ trợ công tác xây dựng vùng yếu, phát triển mạng lưới hậu cần, tuyển quân tại chỗ, góp phần trực tiếp vào giải quyết những khó khăn trước mắt.