Vì vậy, nghiên cứu loại cơ cấu ngành kinh tế là nhằm tìm ra những cách thức duy trì tính tỉ lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung các nguồn lực có hạn của quốc gia trong mỗi thời kỳ nhằm thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Nước ta về cơ bản vẫn còn là một nước nông nghiệp. Mục tiêu đến năm 2020 đưa nền kinh tế nước ta cơ bản trở thành một nền kinh tế công nghiệp. Muốn vậy, trong cơ cấu các ngành kinh tế thì tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ phải được tăng lên, còn tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm xuống. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, muốn chuyển dịch từ một nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đều phải trải qua các bước: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp (tỷ trọng nông nghiệp chiếm 40-60%, công nghiệp 10-20%, dịch vụ từ 10-30%) sang nền kinh tế công nghiệp phát triển (tỷ trọng nông nghiệp 10%, công nghiệp 34-40%, dịch vụ từ 50-60%). Và cuối cùng là một nền kinh tế phát triển có cơ cấu kinh tế dịch vụ 55-60%, công nghiệp 30- 35%, nông nghiệp 5%. ( Tạp chí Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2005)
* Cơ cấu ngành kinh tế là một phần cơ bản hợp thành cơ cấu của một nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế là một phạm trù trừu tượng, muốn nắm vững bản chất của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách có hiệu quả thì cần phải xem xét các bộ phận cơ bản khác hợp thành cơ cấu kinh tế đó là: Cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế lãnh thổ: nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý.
Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ thực chất là hai mặt của một thể thống nhất trong vùng kinh tế và đều là biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong
vùng kinh tế. Trong cơ cấu lãnh thổ có sự biểu hiện cơ cấu trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Xu hướng phát triển của cơ cấu lãnh thổ thường là phát triển nhiều mặt tổng hợp có ưu tiên một vài ngành và gắn liền với hình thành sự phân bổ dân cư phù hợp với các điều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ.
Cơ cấu lãnh thổ phản ánh thế mạnh đặc thù của mỗi vùng đó là sản xuất chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng thể. Cơ cấu lãnh thổ có tính “trì trệ” hơn so với cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế vì nó mang đặc tính sức ỳ rất lớn trong đó đặc biệt là yêu cầu về sự tiện lợi và lợi nhuận. Do đó những sai lầm, khuyết điểm trong việc bố trí cơ cấu lãnh thổ sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế.
Sự chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ chủ yếu dựa trên sự thay đổi các ngành chuyên môn hoá. Đó là một quá trình cải tạo những yếu tố có sẵn và xây dựng yếu tố mới của lực lượng sản xuất theo từng vùng lãnh thổ, cũng đồng thời là quá trình tích tụ những mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố, nhằm từng bước xây dựng cơ cấu lãnh thổ phù hợp với từng thời kỳ phát triển. Chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nước, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, phong tục tập quán, truyền thống của mỗi vùng, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Ninh Bình - 1
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Ninh Bình - 2
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Sự Chuyển Dịch Cơ Cấu Ngành Kinh Tế
- Khái Quát Quan Điểm, Đường Lối Của Đảng Về Chuyển Dịch Cơ Cấu Ngành Kinh Tế Ở Việt Nam Qua Các Kỳ Đại Hội
- Đặc Điểm Cơ Bản Về Điều Kiện Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội Tỉnh Ninh Bình
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
- Cơ cấu thành phần kinh tế: nếu như phân công lao động xã hội là cơ sở để hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội,…Theo nghĩa đó cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế.
Ở nước ta hiện nay, thành phần kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước, giúp Nhà nước trong quá trình quản lý vĩ mô toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế Nhà nước nắm giữ những lĩnh vực, những khâu then chốt của nền kinh tế, có nhiệm vụ bảo đảm những nhu cầu cơ bản của xã hội : Công cộng, an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường sinh thái phát triển những ngành trọng điểm, mũi nhọn, khu kinh tế đặc biệt, những lĩnh vực, những hàng hoá và dịch vụ chính yếu mà thành phần kinh tế ngoài nhà n ước không có khả năng thực hiện một cách hiệu quả. Ngoài ra thành phần kinh tế tập thể, tư nhân, tư bản Nhà nước, kinh tế hộ cá thể và hộ gia đình cũng không thể thiếu được vì chúng đảm bảo các hàng hoá dịch vụ theo nhu cầu tiêu dùng rộng rãi của nhân dân, như: ăn, mặc, đi lại, học hành,vui chơi, giải trí… và những nhu cầu mà kinh tế Nhà nước không đáp ứng đủ hoặc kinh tế Nhà nước thực hiện kém hiệu quả hơn.
Như vậy, ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó cơ cấu ngành có vai trò quyết định, vì nó được hình thành và phát triển theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Còn cơ cấu thành phần kinh tế là những lực lượng kinh tế quan trọng để thực hiện cơ cấu ngành. Theo định hướng của cơ cấu ngành, các thành phần kinh tế tổ chức thực hiện trên cơ sở khả năng và thế mạnh của mỗi thành phần. Người nào sản xuất và kinh doanh cái gì có lợi nhất về kinh tế xã hội, an ninh, sự bền vững của môi trường thì người đó sẽ được quyền lựa chọn để làm. Cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên từng lãnh thổ một cách hợp lý để phát triển ngành và thành phần kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng.
Vì tầm quan trọng của cơ cấu ngành kinh tế đối với sự phát triển nền kinh tế một quốc gia, nên đề tài tập trung vào những vấn đề liên quan đến cơ cấu ngành của nền kinh tế.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa của nó
Quá trình phát triển kinh tế cũng đồng thời là quá trình làm thay đổi các loại cơ cấu kinh tế, kể cả những quan hệ tỷ lệ về số lượng lẫn chất lượng. Nhất là trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng với những cuộc cách mạng về phương thức sản xuất là quá trình thay đổi rất lớn về các loại cơ cấu, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình tạo ra sự thay đổi trong tổng thể, trong tỷ trọng và trong mối quan hệ của các ngành trong một nền kinh tế phù hợp với sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội, biểu hiện chủ yếu trên hai mặt: một là, lực lượng sản xuất càng phát triển càng tạo điều kiện cho quá trình phân công lao động xã hội trở nên sâu sắc; và hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đến lượt nó lại càng làm cho mối quan hệ kinh tế thị trường củng cố và phát triển. Như vậy, sự thay đổi về số lượng và chất lượng của cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Và trong thời kỳ công nghiệp hoá, nó phản ánh mức độ đạt được của quá trình công nghiệp hoá.
Chính vì vậy, ngày nay Kinh tế học phát triển coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những nội dung trụ cột phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Sự khẳng định này là bước tiến quan trọng trong nhận thức lý luận và tư duy chính sách kinh tế. Bởi vì, thực tế cho thấy rằng, có những quốc gia tuy đạt mức độ tăng trưởng kinh tế cao (tức là chỉ số gia tăng GDP, GNP hay GDP/người, GDN/người cao) nhưng cấu trúc (cơ cấu) của nền kinh tế vẫn ít có sự thay đổi, thậm chí có sự tách rời giữa khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại với các khu vực nông nghiệp lạc hậu, và vì vậy, khu vực nông
nghiệp với đông đảo nông dân nghèo khó vẫn không được chia sẻ những thành quả của tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình phát triển, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ trong GDP và trong tổng nguồn lao động xã hội tăng, trong khi tỷ trọng của nông nghiệp (cũng tính trong GDP và trong tổng nguồn lao động xã hội) giảm. Đồng thời dân cư thành thị tăng, dân cư nông thôn giảm. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh mức độ thay đổi của phương thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những khu vực có năng suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn có tốc độ phát triển cao hơn và thay thế dần những khu vực sản xuất-kinh doanh có năng suất lao động và giá trị gia tăng thấp.
2.3. Những chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Vì cơ cấu kinh tế phản ánh cả về lượng lẫn về chất mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế nên khi đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cần chú ý cả những quan hệ tỷ lệ về mặt lượng cũng như phân tích sự thay đổi về chất của các mối tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá, không thể không chú ý tới những đặc điểm riêng của mỗi loại cơ cấu kinh tế. Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế (và cả cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế...) những tiêu chí cơ bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô bao gồm:
2.3.1. Cơ cấu GDP
Mặc dù có những khiếm khuyết nhất định, nhưng khoa học kinh tế hiện đại đã sử dụng chỉ tiêu GDP như một trong những thước đo khái quát nhất, phổ biến nhất để đo lường, đánh giá về tốc độ tăng trưởng, trạng thái và xu hướng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.
Trong đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh xu
hướng vận động và mức độ thành công của công nghiệp hoá. Tỷ lệ phần trăm GDP của các ngành cấp I (khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) là một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế. Trong quá trình công nghiệp hoá, mối tương quan này có xu hướng chung là khu vực nông nghiệp có tỷ lệ ngày càng giảm, còn khu vực phi nông nghiệp (công nghiệp và dịch vụ) ngày càng tăng lên. Và trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện đại, khu vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó là công nghiệp và cuối cùng là nông nghiệp.
Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá việc phân tích cơ cấu các phân ngành (cấp II, cấp III….) có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát hơn khía cạnh chất lượng và mức độ hiện đại hóa của nền kinh tế. Ví dụ, trong khu vực công nghiệp, những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi tay nghề kỹ thuật cao, vốn lớn hay công nghệ hiện đại như cơ khí chế tạo, điện tử công nghiệp, dược phẩm, hoá mỹ phẩm… chiếm tỷ trọng cao sẽ chứng tỏ nền kinh tế đạt mức độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cao hơn so với những lĩnh vực công nghiệp khai khoáng, sơ chế nông sản, công nghiệp lắp ráp… Trong khu vực dịch vụ, những lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, gắn với công nghệ hiện đại như bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn, viễn thông, hàng không v.v… chiếm tỷ lệ cao sẽ rất khác với những lĩnh vực dịch vụ phục vụ sinh hoạt dân sự với công nghệ thủ công hoặc trình độ thấp, quy mô nhỏ lẻ.
2.3.2. Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn được đánh giá qua một chỉ tiêu rất quan trọng là cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế được phân bố như thế nào vào các lĩnh
vực sản xuất khác nhau. Các nhà kinh tế học đánh giá rất cao chỉ tiêu cơ cấu lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế, vì ở góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao động xã hội mới là chỉ tiêu phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế - xã hội của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi vì công nghiệp hoá, hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó, không phải chỉ đơn thuần là sự gia tăng tỷ trọng giá trị của sản xuất công nghiệp, mà là cùng với mức đóng góp vào GDP ngày càng tăng của lĩnh vực công nghiệp (và hiện nay là công nghiệp và dịch vụ dựa trên công nghệ kỹ thuật hiện đại), phải là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đời sống xã hội con người, trong đó cơ sở quan trọng nhất là số lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế.
2.3.3. Cơ cấu hàng xuất khẩu
Trong điều kiện của một nền kinh tế đang công nghiệp hoá, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được xem như một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quy luật phổ biến của quá trình công nghiệp hoá (đối với phần lớn các nước đang phát triển hiện nay) là xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp, ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP và số lượng lao động làm nông nghiệp chiếm phần lớn nhất trong tổng lực lượng lao động xã hội, và do đó, trong tổng giá trị xuất khẩu ít ỏi mà họ có được, một phần rất lớn là sản phẩm nông nghiệp hoặc sản phẩm của công nghiệp khai thác ở dạng nguyên liệu thô (chưa qua chế biến hoặc chỉ ở dạng sơ chế). Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu phục vụ quá trình phát triển công nghiệp lại rất lớn nên tình trạng khan hiếm và thiếu hụt ngoại tệ luôn là một điểm yếu mang tính kinh niên.
Hầu hết các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hoá để trở thành một nước công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua một mô hình chung trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ chủ yếu sản xuất và xuất khẩu hàng sơ chế sang các mặt hàng công nghiệp chế biến, lúc đầu là các loại sản phẩm của công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp như lắp ráp, sản phẩm dệt may, chế biến nông lâm thủy sản… chuyển dần sang các loại sản phẩm sử dụng nhiều công nghệ kỹ thuật cao như sản phẩm cơ khí chế tạo, hoá chất, điện tử, v.v… Chính vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, từ những mặt hàng sơ chế sang những loại sản phẩm chế biến dựa trên cơ sở công nghệ - kỹ thuật cao luôn được xem như một trong những thước đo rất quan trọng đánh giá mức độ thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hơn nữa, đối với nhiều nước chậm phát triển, do những chỉ số tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia nhiều khi thấp hơn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế nên cơ cấu sản phẩm xuất khẩu (được thị trường quốc tế chấp nhận) sẽ là một tiêu chí tốt để bổ sung đánh giá kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đồng thời, với cơ cấu giá trị của các sản phẩm xuất khẩu, cơ cấu nguồn lao động trực tiếp và gián tiếp tham gia vào chế tạo sản phẩm xuất khẩu cũng có ý nghĩa trong phân tích, đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu nguồn lao động xã hội.
Tóm lại, khi phân tích và đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, các nhà kinh tế học thường sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu gồm cơ cấu GDP, cơ cấu lao động và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu để xem xét. Mức độ chi tiết, cụ thể và các khía cạnh tiếp cận của những phân tích này trước hết phụ thuộc vào yêu cầu mục tiêu cần đánh giá, vào nguồn tài liệu sẵn có và nhiều yếu tố khác. Ngoài ra, có thể tập hợp rất nhiều các tiêu chí có ý nghĩa bổ trợ quan trọng khác như quan hệ giữa khu vực sản xuất vật chất