Trách Nhiệm Của Cá Nhân, Cơ Quan, Tổ Chức Trong Việc Cung Cấp Chứng Cứ

xét một cách đầy đủ, toàn diện các ý kiến về đánh giá chứng cứ của Luật sư và những người khác tham gia tranh tụng tại phiên tòa.

Ví dụ: Kết luận giám định khẳng định chữ ký trên hợp đồng mua bán nhà là chữ ký của ông D. Nội dung kết luận chữ ký của ông D là chứng cứ. Nhưng tòa án phải xem xét liệu rằng kết luận có trung thực không, có thể giám định việc cố ý làm sai lệch kết luận giám định? Nếu vậy có cần giám định lại hoặc giám định bổ sung không?

Những chứng cứ được rút ra từ những văn bản công chứng thì việc công chứng có tuân thủ theo đúng các yêu cầu của thủ tục công chứng không? Còn giá trị chứng minh của chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép lại là như nhau. Nói đúng hơn, giá trị chứng minh của chứng cứ được sao chép lại hoàn toàn phụ thuộc vào chứng cứ gốc mà từ đó đã sao ra nó. Một đặc điểm của chứng cứ sao chép lại là do qua nhiều lần sao chép lại xuất phát từ nguồn gốc không đầy đủ, không được nhận định một cách chính xác, mặt khác việc sao chép, thuật lại được thực hiện thông qua con người, do con người, phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người nên tính khách quan, mức độ chính xác không cao, dễ bị sai lệch. Vì vậy, khi đánh giá cần so sánh với chứng cứ gốc và các loại chứng cứ khác khi đưa vào sử dụng.

Người làm chứng chứng tuy có cam đoan về những lời làm chứng của mình, nhưng khi lấy lời khai, thẩm phán phải quan sát tất cả hành vi cử chỉ, ánh mắt, qua đó thẩm phán có thể suy xét họ có khai thật hay không; xem họ có bị mua chuộc, hay bị ép buộc hay không. Mặc dù họ tự khai, ký và khẳng định nhưng nếu quan sát kỹ thẩm phán có thể bằng "linh cảm nghề nghiệp" để đưa ra phán quyết của mình dựa trên những chứng cứ xác đáng khác.

Vụ án tại tòa K xảy ra như sau:


Bà Nguyễn Thị A khởi kiện bà Trần Thị B đòi bà B phải thanh toán số nợ năm mươi triệu đồng (50.000.000đ) dựa trên các chữ ký nhận hàng nguyên vật liệu mà bà đã ký nhận trong sổ ghi nợ của bà A. Tại Tòa án bà A đã phôtô và đưa cả sổ nợ đi cùng để chứng minh bà B đã ký nợ mình. Nhưng bà B một mực khẳng định có mua nguyên vật liệu của bà A để làm nhà nhưng chỉ có không dưới mười năm triệu đồng (15.000.000đ), Bà B khai do không biết chữ nên bà A viết số nguyên liệu bao nhiêu khi mua cũng không

biết; vì là người quen nên đến mua và ký chữ ký mà trước đó bà chỉ học được. Để giải quyết vụ việc này Tòa án nên xem xét về tiểu sử bà B có đi học không, và đối với bà A đã từng xảy ra vụ việc tương tự chưa. Sau khi tòa hoãn phiên tòa và đã xác minh đúng từ trước tới nay chưa có việc bà B đi học, mà bà B chưa từng ký vào bất kỳ văn bản, tài liệu nào từ trước đến nay; lý do bà B ký được là mới đây con bà đã tập cho mẹ mình học viết được tên của bà, vì vậy mà bà đã ký vào sổ nợ của bà là rất vô tư mà không biết bà A ghi thêm số hàng vật liệu.


2.2.5. Bảo vệ chứng cứ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 79 trang tài liệu này.


Trong trường hợp chứng cứ được tòa quản lý thì tòa phải bảo vệ nó. Trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này có thể khó có thể thu thập được thì theo yêu cầu của đương sự hoặc tòa hướng dẫn cho đương sự làm đơn nên biết được việc đó, Tòa án phải có quyết định áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như niêm phong, thu giữ chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác.

Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự - 6

Trong trường hợp người làm chứng bị đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì tòa án có quyền quyết định buộc người có hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng. Trường hợp hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc có dấu hiệu tội phạm thì tòa án yêu cầu Viện Kiểm sát xem xét về trách nhiệm hình sự.

Việc bảo vệ chống lại hành vi xâm phạm chứng cứ để giữ gìn giá trị chứng minh của chứng cứ có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự; bởi vậy, tòa án cần kịp thời, nhanh chóng áp dụng biện pháp bảo vệ chứng cứ khi có yêu cầu, tránh trường hợp khi tòa áp dụng biện pháp bảo vệ thì chứng cứ đã bị tiêu hủy.


2.3. trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ


Việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ là biện pháp thu thập chứng cứ bảo đảm cho tòa án có đủ chứng cứ giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Tuy vậy, do quy định của pháp luật tố tụng dân sự Tòa án cũng chỉ tiến hành biện pháp này

khi đương sự đã yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ nhưng không được đáp ứng.

Trường hợp tòa án đang thụ lý hồ sơ vụ án, thực hiện yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự sẽ có hai khả năng xảy ra:

- Thứ nhất: Là cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ trực tiếp chuyển giao, cung cấp chứng cứ cho tòa án sẽ phải thực hiện bằng biên bản giao nhận, cung cấp chứng cứ. Việc xem xét chấp nhận chứng cứ sẽ được thực hiện như đối với trường hợp đương sự giao chứng cứ cho tòa án.

- Thứ hai: Là cá nhân, cơ quan tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ gián tiếp chuyển giao, cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của tòa án.

Ví dụ: Cần xác định tin tức của người đang ở nước ngoài, tòa án có thể yêu cầu Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Lao động Thương binh và xã hội, hoặc Bộ ngoại giao cung cấp những tin tức liên quan. Hoặc trong trường hợp cần tính đúng lãi suất cho một khoản nợ giữa các đương sự có tranh chấp về đòi tiền nợ, thẩm phán yêu cầu Ngân hàng Nhà nước cho biết mức lãi suất tại thời điểm cụ thể. Hoặc có trường hợp thẩm phán yêu cầu Sở Tài nguyên - Môi trường và nhà đất thành phố Hà Nội cho biết về nguồn gốc nhà - đất có chuyển dịch quyền sử dụng, sở hữu được hay không? Các chủ thể được yêu cầu trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời những chứng cứ đang quản lý lưu giữ.


2.4. những người tham gia tố tụng khác


- Người đại diện của đương sự được quy định tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:

1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình là đại diện.

2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung bản ủy quyền.

Người đại diện của đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự nên nghĩa vụ chứng minh của họ được hình thành trên cơ sở nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Trong tố tụng dân sự, tùy theo việc họ đại diện cho đương sự nào mà có ý nghĩa vụ chứng minh của đương sự đó. Người đại diện theo pháp luật, người đại diện do Tòa án chỉ định có nghĩa vụ thực hiện tất cả nghĩa vụ chứng minh của đương sự họ đại diện. Người đại diện theo ủy quyền của đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong phạm vi ủy quyền.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được quy định tại Điều 64 Bộ luật Tố tụng dân sự:

1. Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Tòa án xét thấy cần thiết.

2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

3. Tham gia việc hòa giải, tham gia phiên tòa hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

4. Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.

5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Ngoài ra, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn có các quyền và nghĩa vụ:

+ Tranh luận tại phiên tòa


+ Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án.

+ Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa.


Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự nên cũng có nghĩa vụ chứng minh. Ngoài việc giúp đương sự về mặt pháp lý để đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự phải chứng minh sự tồn tại các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự để bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trước Tòa án. Cụ thể, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng phải đưa ra các chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho các yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của đương sự là có cơ sở; ngoài ra, nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ tham gia tố tụng của họ.

- Kiểm sát việc thuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự được quy định tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự"

1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.

2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại. Các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.

Bộ luật Tố tụng dân sự khẳng định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Tuy vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định Viện kiểm sát không tham gia tất cả các phiên tòa xét xử của Tòa án, mà chỉ tham gia những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại.

Các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án (khoản 2 Điều 2). Bộ luật Tố tụng dân sự đã không quy định Viện kiểm sát có quyền khởi tố đối với một số vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động như trước đây.

Chương 3


Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện chế định chứng cứ và chứng minh

trong Bộ luật Tố tụng dân sự


3.1. Thực trạng pháp luật về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự


3.1.1. Điểm mới


Kể từ ngày 01-01-2005, khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực đã thay thế cho các pháp lệnh trước đó là: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, ngày 29-11- 1989; Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, ngày 17-4-1983; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, ngày 16- 3-1994; Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam quy định của trọng tài nước ngoài, ngày 14-9-1995 và những quy định về thủ tục giải quyết các vụ án lao động của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động.

Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu Bộ luật Tố tụng dân sự, tác giả thấy Bộ luật Tố tụng dân sự thể hiện rõ tính kế thừa và phát triển. Bộ luật Tố tụng dân sự được xây dựng trên cơ sở pháp điển hóa các quy định của pháp luật, bổ sung những thiếu sót về nguyên tắc và cả cho giải quyết trong tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động. Khắc phục sự tản mạn, trùng lặp, thiếu đồng bộ trong các văn bản trước đây. Đồng thời, thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992, đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 57/2001/QH10 ngày 25-12-2001 về phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Trước khi có Bộ luật Tố tụng dân sự, các văn bản trước đây trong một thời gian dài đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp và yêu cầu của các bên đương sự, góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện, nhất là trước sự phát triển toàn diện của nền kinh tế, xã hội trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, các văn bản trước đây đã bộc lộ nhiều hạn chế: nội dung chưa đầy đủ, một số quy định không còn phù hợp, Bộ luật Tố tụng dân sự đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống đặt ra.

Về chế định chứng minh và chứng cứ Bộ luật Tố tụng dân sự quy định có nhiều điểm mới, tiến bộ như sau:

Bộ luật Tố tụng dân sự dành chương VII bao gồm 20 điều (từ Điều 79 đến Điều

98) của phần thứ nhất quy định về chứng minh và chứng cứ, trình tự thu thập, cung cấp, sử dụng và đánh giá chứng cứ..., trong đó xác định rõ nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:

1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.

2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.

3...


4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ.

Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:


1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp...

...


Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: "Đương sự có quyền bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình".

Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định tố đa các quyền của đương sự; nhưng đồng thời quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Chỉ trong những trường hợp cần thiết do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định thì Tòa án mới tiến hành xác minh thu thập chứng cứ.

- Lần đầu tiên Bộ luật Tố tụng dân sự đã có một điều luật quy định khái niệm "chứng cứ" (Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự); khái niệm này đã phản ánh đầy đủ ba thuộc tính trong nội hàm của khái niệm, đó là: tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp.

Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định rõ ràng trình tự, thủ tục cung cấp, giao nhận, thu thập, trình tự phát biểu, tranh luận tại phiên tòa..., đặc biệt tranh tụng trong tố tụng dân sự được đề cao, tạo ra một cơ chế tố tụng mới cần thiết cho các chủ thể chứng minh.

Lần đầu tiên trong Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh (Điều 80). Quy định này tạo cơ sở cho Tòa án xác định chứng cứ dễ dàng, nhanh chóng.

Lần đầu tiên trong Bộ luật đã quy định liệt kê 9 loại nguồn cơ bản của chứng cứ (Điều 82). Tạo cơ sở để các chủ thể chứng minh xác định chứng cứ để chứng minh. Thủ tục giao nhận chứng cứ giữa đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức... với Tòa án thực hiện theo văn bản giao nhận.

Lần đầu tiên trong tố tụng chứng cứ được quy định phải được công khai mọi chứng cứ, trừ trường hợp có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc..., bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân hoặc theo yêu cầu chính đáng của đương sự (Điều 97).

3.1.2. Một số bất cập, hạn chế


Để thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 3 năm 2005 hướng dẫn phần thứ nhất "Những quy định chung" của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004; và ngày 17 tháng 9 năm 2005 Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP về hướng dẫn một số quy định của Bộ Luật tố tụng về "Chứng minh và chứng cứ". Tuy mới có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2005

Xem tất cả 79 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí