Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhật và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - 2


CHƯƠNG I‌‌

TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ


Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng một vai trò hết sức quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào nếu muốn phát triển đều phải đẩy mạnh hoạt động của loại hình doanh nghiệp này. Vậy doanh nghiệp vừa và nhỏ là gì? Loại hình doanh nghiệp này có đặc điểm và vai trò như thế nào? Vì sao cần phải hỗ trợ các doanh nghiệp này?…Câu trả lời cho những câu hỏi này sẽ là những nội dung được đề cập đến trong chương I.

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ


1. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)

Trong thời gian gần đây, cụm từ SME đã trở nên phổ biến và quen thuộc. Mặc dù có các cách nói khác nhau ở mỗi nơi, là “doanh nghiệp vừa và nhỏ” hay “doanh nghiệp nhỏ và vừa” thì cũng đều dùng để chỉ một đối tượng doanh nghiệp trong nền kinh tế. Loại hình doanh nghiệp này được xếp loại theo những tiêu chí nhất định thường là dựa vào quy mô sản xuất của doanh nghiệp.

Điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm SME giữa các nước chính là việc chọn các tiêu thức đánh giá quy mô doanh nghiệp và lượng hoá các tiêu thức thông qua những tiêu chuẩn cụ thể. Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về qui định các tiêu thức phân loại SME , song khái niệm chung nhất về SME có nội dung như sau:

SME là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có qui mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kì theo qui định của từng quốc gia.[6.8]


2. Phân loại

2.1. Tiêu chí phân loại

Qua nghiên cứu tiêu thức phân loại ở các nước có thể nhận thấy một số tiêu thức chung, phổ biến nhất thường được SME sử dụng trên thế giới là:

- Số lao động thường xuyên

- Vốn sản xuất

- Doanh thu

- Lợi nhuận

- Giá trị gia tăng

Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh qui mô sử dụng các yếu tố đầu vào, còn tiêu thức về doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo kết quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và hạn chế riêng. Như vậy để phân loại SME có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp, hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố đó.

Việc sử dụng các tiêu thức để phân loại SME ở các nước trên thế giới có các đặc điểm chủ yếu sau đây:

- Các nước dùng các tiêu thức khác nhau. Trong số đó hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô và vốn lao động. Tiêu thức đầu ra được sử dụng ít hơn.

- Số lượng tiêu thức để sử dụng phân loại cũng không giống nhau. Có nước chỉ dùng một tiêu thức nhưng cũng có nước sử dụng đồng thời hai hoặc nhiều tiêu thức để phân loại SME .

- Lượng hoá các tiêu thức này thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở các nước khác nhau không giống nhau. Độ lớn các tiêu chuẩn giới hạn phụ thuộc vào trình độ, hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế, định hướng chính sách và khả năng trợ giúp cho các SME có thể rất lớn hoặc vừa và nhỏ tuỳ theo giới hạn độ lớn khối lượng vốn và lao động sử dụng ở mỗi nước.

2.2. Các yếu tố tác động đến phân loại

Khái niệm SME mang tính tương đối, nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định và phụ thuộc vào:

2.2.1. Trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng nước


Thông thường các nước có trình độ phát triển cao thì giới hạn quy mô chỉ tiêu quy định lớn hơn so với các nước có trình độ phát triển thấp. Chẳng hạn ở Nhật Bản, các doanh nghiệp trong lĩnh vực chế tạo và các lĩnh vực khác số vốn tối đa không quá 300 triệu yên hoặc số lao động tối đa là 300 người. Trong bán buôn, con số này là 100 triệu yên hoặc 100 triệu lao động. Bán lẻ và dịch vụ được tách ra và có những quy định riêng, bán lẻ có số lao động tối đa là 50 người hoặc số vốn tối đa là 50 triệu yên; dịch vụ có số lao động tối đa là 100 người hoặc số vốn tối đa là 50 triệu yên. Ở Đài Loan theo qui định hiện nay trong ngành xây dựng các doanh nghiệp có vốn dưới 1,4 triệu USD, lao động dưới 300 người; trong công nghiệp khai khoáng các doanh nghiệp có vốn dưới 1,4 triệu USD, 500 lao động và trong thương mại, dịch vụ có doanh số dưới 1,4 triệu USD và dưới 50 lao động là những SME. Sự thay đổi qui định này thể hiện khả năng thích ứng nhanh của cơ chế chính sách quản lí của nhà nước đối với khu vực SME dưới tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội và các môi trường bên ngoài.

2.2.2. Giai đoạn phát triển của nền kinh tế

Các giới hạn tiêu chuẩn này còn được quy định trong những thời kì cụ thể và có sự thay đổi theo thời gian cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội của từng giai đoạn. Chẳng hạn ở Đài Loan trong 30 năm qua đã có sáu lần thay đổi quy định giới hạn và các tiêu thức phân loại SME( Bảng 1).

Ở Nhật Bản, những tiêu thức phân loại được quy định trong Luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 1963 và Luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ sửa đổi năm 1999 cũng đã có nhiều sự thay đổi phù hợp với hoàn cảnh thực tế.

2.2.3. Ngành nghề của các doanh nghiệp

Giới hạn chỉ tiêu độ lớn của các SME được quy định khác nhau theo những ngành nghề khác nhau. Đa phần các nước có sự phân biệt quy mô các tiêu thức vốn, lao động sử dụng riêng cho các ngành nghề, lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, thương mại hoặc dịch vụ. Tuy vậy vẫn có một số nước dùng chung một tiêu thức chung cho tất cả các ngành.

Trong từng thời kì các tiêu thức và tiêu chuẩn giới hạn lại có sự thay đổi cho phù hợp với đường lối, chính sách, chiến lược và khả năng hỗ trợ của một quốc gia. Những tiêu thức phân loại SME được dùng làm căn cứ thiết lập những chính sách phát triển, hỗ trợ SME của các chính phủ.


Việc xác định các giới hạn tiêu thức này có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở xác định các cơ chế quản lý với những chính sách ưu tiên thích hợp và xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý có hiệu quả đối với hệ thống các doanh nghiệp này.

2.3. Cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước trên thế giới

Cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mỗi nước đều có những điểm khác nhau. Qua cách phân loại của một số nước cũng có thể thấy rõ điều này.

* Đài Loan

Khái niệm SME bắt đầu được sử dụng trên vùng lãnh thổ này từ năm 1967. Ngay từ đầu, loại doanh nghiệp này được phân biệt theo hai nhóm ngành: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; thương mại, vận tải, các dịch vụ khác.

Từ năm 1977 bổ sung thêm một nhóm ngành nữa là khai khoáng. Tiêu chí phân loại và các trị số của từng tiêu chí qua các thời kỳ có thể thấy qua Bảng 1, trong công nghiệp và khai khoáng dùng tiêu chí vốn góp và lao động; trong thương mại và dịch vụ khác dùng tiêu chí doanh thu và lao động.

Bảng 1. Tiêu thức xác định SME ở Đài Loan qua các thời kỳ



Thời kỳ

Tiêu chí


Ngành

Vốn góp (tổng giá trị tài sản) triệu T$

Lao động thường xuyên

( người)


Doanh số ( triệu T$)

1967-

1973

Sản xuất công nghiệp

Thương mại, dịch vụ

< 5

<100

< 50

-

< 5

1973-

1977

Sản xuất công nghiệp Thương mại dịch vụ

< 5(< 20)*

-

< 100 (200,300)**

< 50

-

< 5

1977-

1979

Sản xuất công nghiệp Khai khoáng

Thương mại, dịch vụ

< 20(60)*

< 20

-

< 300

< 500

< 50

-

-

< 20

1979-

1982

Sản xuất công nghiệp Khai khoáng

Thương mại, dịch vụ

< 20 (60)*

< 40

-

< 300

< 500

< 50

-

-

< 50

1982-

1991

Sản xuất công nghiệp Khai khoáng

Thương mại, dịch vụ

<40 (120)

< 40

-

< 300

< 500

< 50

-

-

< 40

1991 -

nay

Công nghiệp xây dựng Khai khoáng

Thương mại, dịch vụ

< 40 (120)

< 40

-

< 300

< 500

< 50

-

-

< 40

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhật và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - 2


Nguồn: Kỷ yếu khoa học, Dự án chính sách hỗ trợ phát triển SME ở Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996

Chú thích:

* : Số trong ngoặc đơn là tổng giá trị tài sản.

**: Trong ngành may mặc: số lao động dưới 300 người

Trong công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm: dưới 200 người Trong các ngành khác: dưới 100 người.

Trong thời gian hơn 30 năm qua, tiêu chí SME ở Đài Loan đã được điều chỉnh 6 lần. Sự thay đổi trong khái niệm SME theo hướng: tăng dần trị số các tiêu chí( trong sản xuất: vốn góp từ 5 triệu lên 40 triệu đôla Đài Loan, tổng giá trị tài sản từ 20 triệu lên 120 triệu đôla Đài Loan, doanh số từ 5 triệu lên 40 triệu), phân ngành hẹp hơn nhưng bao quát nhiều lĩnh vực hơn( từ hai nhóm ngành lên ba nhóm, bao quát rộng hơn: cả công nghiệp và xây dựng).

Hiện nay, ở Đài Loan, khái niệm SME như sau: SME là doanh nghiệp:

- Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: có vốn góp dưới 40 triệu đôla Đài Loan( khoảng 1,4 triệu USD), số lao động thường xuyên dưới 300 người.

- Trong khai khoáng: có vốn góp dưới 40 triệu đôla Đài Loan( khoảng 1,4 triệu USD), lao động thường xuyên dưới 500 người.

- Trong thương mại, vận tải và dịch vụ khác: có tổng doanh số hàng năm dưới 40 triệu đôla Đài Loan, lao động dưới 50 người.

* Hàn Quốc

Theo sắc lệnh cơ bản của Hàn Quốc về SME, việc phân loại quy mô doanh nghiệp được thực hiện theo hai nhóm ngành:

- Trong ngành chế tạo, khai thác, xây dựng: doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 600000 USD và số lao động thường xuyên dưới 300 người. Nếu doanh nghiệp có dưới 20 lao động thường xuyên là doanh nghiệp nhỏ.

- Trong thương mại: SME là doanh nghiệp có doanh thu một năm dưới 250000 USD. Doanh nghiệp có lao động dưới 5 người được coi là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có từ 6-20 công nhân là doanh nghiệp vừa.


Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ với số lao động cao hơn hoặc thấp hơn mức nói trên vẫn thuộc loại vừa và nhỏ:

- Trong ngành sản xuất linh kiện ô tô, linh kiện điện tử: số công nhân tới 1000 người;

- Trong các ngành khai khoáng, may, sản xuất xăm lốp, đúc, sản xuất xe đạp, kính đeo, đồ chơi: tới 700 người;

- Ngành đồ hộp, dệt, nhuộm, in, cao su, thuỷ tinh, bóng đèn, phương tiện viễn thông, đồng hồ đeo tay, nhạc cụ, vận tải: tới 500 người;

- Trong ngành du lịch, sửa chữa ô tô, xe máy: tới 200 người. Về vốn cũng có một số ngoại lệ:

- Khai khoáng: tới 120 triệu won

- Ngành chế tạo và khai thác kim loại đen: tới 150 triệu won,

- Gỗ, đồ chơi, búp bê: tới 200 triệu won

- Thực phẩm, đồ uống, thuốc lá: tới 25 triệu won.

- Quần áo may sẵn, dệt, da, hoá chất, xăng dầu, cao su, nhựa: tới 300 triệu won

- Giấy, in ấn, lắp ráp máy, sắt thép, cán thép, linh kiện ô tô: tới 600 triệu won

*Philippin

Trong sản xuất, doanh nghiệp được chia thành 4 loại:

Doanh nghiệp cực nhỏ và hộ gia đình: có vốn dưới 1, 5 triệu peso( 72000 USD) Doanh nghiệp nhỏ: có vốn từ 1,5 -15 triệu peso( 72.000-720.000 USD)

Doanh nghiệp vừa: có vốn từ 15 triệu – 60 triệu peso( 720.000 -2,9 triệu

USD)


Doanh nghiệp lớn: có vốn trên 60 triệu peso ( trên 2,9 triệu USD)

* Liên minh châu Âu

SME là doanh nghiệp có dưới 250 lao động, doanh số không quá 40.000 ECU

hoặc tổng số vốn hàng năm không quá 27 triệu ECU, có cổ phần không quá 25% ở một xí nghiệp lớn.

Có thể khái quát lại, việc phân chia doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở các nước theo ngành nghề và khác nhau trong từng thời kỳ. Các tiêu chí được sử dụng


phổ biến ở nhiều nước là số lao động thường xuyên, vốn đầu tư, doanh số, còn trị số các chỉ tiêu thì khác nhau và phụ thuộc trình độ phát triển kinh tế của từng nước.


Bảng 2. Tiêu thức xác định SME ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ



Nước


Loại doanh nghiệp

Số lao động(người)

Tổng số vốn hoặc giá trị tài

sản


Doanh số /năm

CHLB

Đức

SME

Doanh nghiệp nhỏ

< 500

< 9


<100 triệu DM

< 1 triệu DM

Australia

SME

< 500



Canada

SME

<500


< 20 triệu đôla

Canada


Hàn Quốc

SME trong công nghiệp

SME trong dịch vụ (trừ giao thông vận tải)

<300

< 20

<0,6 triệu USD

<0,25 triệu USD


Hồng Kông

SME trong công nghiệp

SME trong dịch vụ

< 100

< 50

<120 triệu

đôla Hồng Kông



Đài Loan

SME

<300 trong công nghiệp xây dựng

<50 trong thương mại,

dịch vụ


Trong thương mại dịch vụ: < 1,4 triệu USD

Singapore

SME

< 100

< 500 triệu

đôla Singapore



Thái Lan

SME

Công nghiệp gia đình Doanh nghiệp nhỏ

< 200

< 10

10 - 49

< 50 triệu Bath

< 1 triệu Bath

< 10 triệu Bath


Indonesia

SME

Doanh nghiệp cực nhỏ Doanh nghiệp nhỏ

< 200


< 20


< 2 triệu rupia

< 600 triệu rupia

< 2 tỷ rupia

< 50 triệu rupia

< 1 tỷ rupia


Philippin

SME

Doanh nghiệp cực nhỏ Hộ thủ công


Doanh nghiệp nhỏ

< 200

< 9

< 9


10-99

< 60 triệu peso

< 150. 000

150.000-1,5

triệu peso

1,5 triệu peso-

15 triệu peso




Malaysia

SME


Doanh nghiệp nhỏ

< 200


< 50

< 2,5 triệu đôla Malaysia

< 0,5 triệu đôla Malaysia


Myanmar

SME

< 100



Nguồn: Kỷ yếu khoa học, Dự án chính sách hỗ trợ phát triển SME ở Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996.

2.4. Các cách phân loại ở Việt Nam

Ở Việt Nam, trong suốt một thời gian dài, tiêu chí về doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được quy định trong bất kỳ một văn bản luật hay dưới luật nào.

Trong cơ chế bao cấp, các doanh nghiệp Nhà nước được chia thành doanh nghiệp loại 1, doanh nghiệp loại 2, doanh nghiệp loại 3 với tiêu chí phân loại chủ yếu là số lao động trong biên chế và theo phân cấp Trung ương- địa phương. Trong đó, SME gần như tương ứng với doanh nghiệp loại 2 và loại 3.

Theo thông tư liên bộ số 21/LĐTT ngày 17/6/1993 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính, các doanh nghiệp ở Việt Nam được phân chia thành 5 hạng: hạng đặc biệt, hạng I, II, III, IV dựa trên độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất, kinh doanh với 8 tiêu chí rất phức tạp như vốn, công nghệ, lao động, lợi nhuận, doanh thu… Đối tượng phân loại chủ yếu chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp nhà nước với mục đích chủ yếu là để xếp lương cho cán bộ quản lý doanh nghiệp.

Trước năm 1998, do yêu cầu của thực tiễn, một số cơ quan và một số nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra một số tiêu chí để xác định SME ở Việt Nam. Các ý kiến đề xuất phần lớn đều kiến nghị lấy hai tiêu chí là vốn và lao động. Cụ thể:

- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam quy định một doanh nghiệp với không quá 500 lao động, trị giá tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng năm không quá 20 tỷ đồng là SME.

- Bộ Tài chính và Bộ Lao động thương binh xã hội quy định SME là doanh nghiệp có số lao động thường xuyên dưới 100 người, doanh thu hàng năm không quá 10 tỷ đồng và có số vốn pháp định là dưới 1 tỷ đồng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/04/2022