khẩu Hiệp Hưng đã được bảo hộ đối với bao bì bánh Snack. Sản phẩm trà chanh Nestea bị nhầm lẫn với Freshtea của Công ty Thuý Hương. Sự tương tự về phần chữ, từ cấu tạo, đến cách phát âm và cả cách trình bày, bố cục, màu sắc, nếu không chú ý thì sẽ khó phát hiện hai gói trà chanh đó do hai công ty khác nhau sản xuất. Không ít người tiêu dùng khi được hỏi thì nhầm tưởng rằng hai sản phẩm đó là của cùng một công ty… Bên cạnh đó, những giả mạo chỉ dẫn thương mại trên thị trường cũng không phải ít. Hàng hoá dán mác Made in Japan, Made in USA nhưng thực chất lại được sản xuất tại Trung Quốc hoặc tại Việt Nam.
Thời gian gần đây, dư luận đang xôn xao về việc Công ty cổ phần thương mại điện tử Bảo Kim, dịch vụ ví điện tử ra đời từ tháng 6/2010 có những đặc điểm giống y hệt với ví điện tử nganluong.vn (Ngân Lượng) phiên bản 1.0 của Công ty cổ phần Giải pháp phần mềm Hoà Bình (PeaceSoft) được yêu thích năm 2009. Ra đời sau Ngân Lượng của PeaceSoft 2 năm nhưng Bảo Kim lại có những đặc điểm giống Ngân Lượng từ khái niệm sản phẩm, mô hình dịch vụ, cấu trúc chức năng cho đến mẫu hợp đồng, các nội dung giới thiệu quảng cáo và lời lẽ giải thích trên website… Khi Ngân Lượng nâng cấp lên phiên bản 2.0 vào tháng 7/2010, Bảo Kim lại tiếp tục thay đổi giao diện mô phỏng theo hình thức của Ngân Lượng. Theo Công ty cổ phần PeaceSoft thì cổng thanh toán trực tuyến nganluong.vn đã đăng ký và được pháp luật bảo hộ, tất cả các tài liệu, mẫu hợp đồng, mô hình hoạt động, phương thức kinh doanh… của nganluong.vn cũng là tài sản trí tuệ của công ty PeaceSoft. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh như thế vẫn thường xuyên xảy ra trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, nó không chỉ xâm hại đến tài sản mà còn gây rối hoạt động kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh.
Nghị định số 97/2010/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 21/9/2010 thay thế Nghị định số 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định: Tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi như bán, chào hàng, vận chuyển, kể cả quá cảnh, tàng trữ, trưng bày để bán hàng hóa giả mạo nhãn
hiệu, chỉ dẫn địa lý sẽ bị phạt từ 4-500 triệu đồng. Các hành vi đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại của người khác được bảo hộ nhằm chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng trước đây chưa được quy định tại Nghị định 106/2006/NĐ-CP, nay đã được quy định cụ thể với mức phạt từ 5-20 triệu đồng.
Nghị định mới đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa quy định còn phù hợp và khắc phục những quy định sơ hở, chồng chéo của pháp luật hiện hành như: hình thức xử phạt hành chính trong trường hợp có hành vi xâm phạm quyền gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội được mở rộng đối với cả hành vi xâm phạm gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu; mức phạt hành chính trước đây từ 1 đến 5 lần giá trị hàng hoá vi phạm được thay bằng mức trần tối đa 500 triệu đồng để phù hợp với Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008.
* Thực tiễn xâm phạm bí mật kinh doanh
Bí mật kinh doanh là một tài sản trí tuệ (tài sản vô hình), khác với các tài sản hữu hình khác. Vì vậy, bí mật kinh doanh được xem như là một lợi thế đặc biệt của doanh nghiệp sở hữu nó, nếu để mất thì có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh hoặc sự tồn tại của doanh nghiệp. Bí mật kinh doanh cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Qua thực tiễn, có thể hiểu, xâm phạm bí mật kinh doanh là hành vi của doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh và vì mục đích cạnh tranh, đã thực hiện tiếp cận, thu thập, tiết lộ, sử dụng thông tin hay vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của chủ sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó. Bí mật kinh doanh có thể biểu hiện dưới dạng là
"những tài liệu riêng của doanh nghiệp như: bản thiết kế máy, công thức sản xuất, cách thức pha chế, danh sách đại diện hay khách hàng của doanh nghiệp, hồ sơ dự thầu…" [34. tr. 253].
Pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể đối tượng nào là bí mật kinh doanh. Vì thế, khi tranh chấp xảy ra, khó xác định được thông tin mà các bên sử dụng để cạnh tranh không lành mạnh có phải là bí mật kinh doanh hay không. Khi một bí mật kinh doanh thuộc đối tượng sở hữu công nghiệp (tức là đã được đăng ký bảo hộ và công khai) thì vi phạm xảy ra sẽ dễ dàng có căn cứ xử lý và áp dụng các chế tài đã được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ. Nhưng đã là bí mật kinh doanh thì rất khó công khai, do đó chủ sở hữu phải tự bảo mật. Khi có hành vi cạnh tranh không lành mạnh, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm xác định đó có phải là bí mật kinh doanh hay không và chủ sở hữu phải chứng minh đó là bí mật kinh doanh.
Có thể bạn quan tâm!
- Mối Quan Hệ Giữa Các Hình Thức Chế Tài
- Nguồn Của Pháp Luật Về Chế Tài Đối Với Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
- Các Văn Bản Pháp Luật Trong Các Lĩnh Vực Cụ Thể Có Quy Định Chế Tài Đối Với Các Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh (Luật Sở Hữu Trí Tuệ, Pháp
- Chế tài đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật Việt Nam - 9
- Thực Tiễn Áp Dụng Các Chế Tài Xử Lý Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Ở Nước Ta Trong Thời Gian Gần Đây
- Nguyên Nhân Của Việc Xử Lý Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Còn Kém Hiệu Quả Ở Nước Ta Hiện Nay
Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.
Chế tài đối với các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh đã được Nghị định số 97/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định cụ thể. Tổ chức, cá nhân có một trong các hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh sẽ phải chịu chế tài phạt tiền, với mức phạt từ 10-30 triệu đồng.
Tại Mỹ, vụ việc đánh cắp bí mật kinh doanh của công ty Coca-Cola là một trong những ví dụ về sự tinh vi trong hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh trên thị trường. Nhân viên của công ty Coca-Cola đã xâm nhập các dữ liệu và đánh cắp công thức chế tạo một sản phẩm mới của Coca-Cola. Sau đó, đề nghị bán thông tin cho Pepsi-Cola, đối thủ cạnh tranh hàng đầu của Coca- Cola. Một nhân viên bí mật của FBI được giao đặc vụ hẹn gặp với nhân viên này tại sân bay quốc tế Hartsfield-Jackson tại Atlanta. Trong cuộc gặp này, anh ta đã đưa ra một phong bì có chứa tài liệu và một chai thủy tinh đựng mẫu dung dịch lỏng. Nhân viên điều tra FBI cho biết sẽ trả trước 30.000 USD và hứa trả nốt 45.000 USD còn lại sau. Tiếp đó, FBI bí mật giao cho một nhân viên khác giả vờ ngỏ ý muốn mua nốt số bí quyết còn lại với giá 1,5 triệu
USD từ người đã giao tài liệu và mẫu dung dịch. Cùng ngày, FBI phát hiện một tài khoản ngân hàng đã được mở dưới tên là Duhaney và Dimson. Ngay sau đó, anh ta bị bắt và bị đưa ra hầu tòa tại Atlanta, Georgia. Sự việc này không chỉ là một lời cảnh báo cho Coca-Cola mà còn cho tất cả các doanh nghiệp khác.
Ở Việt Nam, khái niệm bí mật kinh doanh cũng như vấn đề bảo vệ, gìn giữ bí mật kinh doanh còn khá mới mẻ và chưa thực sự được coi trọng. Các chế tài đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh cũng chưa thực sự nghiêm khắc (chủ yếu áp dụng biện pháp dân sự, hành chính). Điều này một phần là do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh ít khi ảnh hưởng lớn tới người tiêu dùng và toàn xã hội mà chỉ ảnh hưởng tới chủ sở hữu nó. Do vậy, biện pháp tốt nhất hiện nay đối với doanh nghiệp để bảo vệ bí mật kinh doanh của mình là tự thiết lập các chiến lược, kỹ thuật bảo mật.
Trong trường hợp phát hiện ra hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh của các chủ thể khác, chủ sở hữu bí mật kinh doanh có thể yêu cầu hoặc sử dụng các biện pháp cần thiết để buộc họ phải chấm dứt hành vi vi phạm. Nếu các chủ thể có hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh thừa nhận hành vi xâm phạm, thì chủ sở hữu nên giải quyết bằng thương lượng và hòa giải nhằm đảm bảo tính bí mật của nó.
Trong trường hợp không thể giải quyết được thông qua con đường thương lượng, hòa giải, chủ sở hữu có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Tòa án, Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Ủy ban nhân dân các cấp xử lý hành vi xâm phạm thông qua các biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự theo quy định của pháp luật.
Trong các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, việc xử lý bằng chế tài dân sự là biện pháp có ý nghĩa hơn cả. Ưu điểm của các chế tài dân sự là có thể đền bù một cách trực tiếp và tương xứng các thiệt hại của chủ sở hữu do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh gây ra. Thiệt hại vật chất
được đền bù bao gồm: tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại. Tuy nhiên, chủ sở hữu phải tự chứng minh hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, chứng minh các biện pháp bảo mật mà mình đã áp dụng, đồng thời phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra bằng các chứng cứ hợp pháp.
Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh nhằm cạnh tranh không lành mạnh có thể được xử lý bằng các chế tài hành chính, nhưng khác với các biện pháp xử lý hành chính thông thường. Việc xử lý hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh bằng chế tài hành chính chỉ được tiến hành khi có đơn yêu cầu của bên bị thiệt hại. Chế tài hành chính được áp dụng đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh không làm triệt tiêu yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh gây ra. Do đó, các chủ thể bị xâm phạm bí mật kinh doanh có thể yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại.
Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh nếu có đủ yếu tố cầu thành tội phạm thì có thể bị xử lý bằng chế tài hình sự. Việc xử lý bằng chế tài hình sự phải được Tòa án có thẩm quyền áp dụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện nay đã có một cơ chế khá hoàn chỉnh để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với bí mật kinh doanh của các thương nhân. Tuy vậy, trên thực tế các thương nhân ở Việt Nam dường như vẫn còn rất xa lạ với việc sử dụng pháp luật để bảo vệ bí mật kinh doanh và sử dụng quy trình tố tụng Tòa án để bảo vệ bí mật kinh doanh của họ.
* Thực tiễn hành vi ép buộc trong kinh doanh
Ép buộc trong kinh doanh là việc doanh nghiệp ép buộc, đe dọa khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ không cho họ giao dịch hoặc phải ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó. Biểu hiện phổ biến trên thị
trường Việt Nam là các nhà sản xuất lớn, các công ty tiềm năng thường có hành vi đe doạ cắt đứt quan hệ đại lý với các cửa hàng bán lẻ nếu cùng một thời điểm nhận làm đại lý bán các mặt hàng cạnh tranh cho các nhà sản xuất khác. Hành vi này đã xâm phạm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh khác và quyền lợi của người tiêu dùng. Ở một phương diện nào đó, các thủ đoạn đe doạ, cưỡng ép mang dấu hiệu không lành mạnh trong kinh doanh có bản chất của hành vi côn đồ, còn có thể gây ra những xáo trộn nhất định trong cộng đồng, ảnh hưởng trật tự an ninh xã hội.
Ép buộc trong kinh doanh là hành vi vi phạm pháp luật được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, nếu thoả mãn các dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì xử lý theo quy định của Luật Cạnh tranh, nếu không thì căn cứ vào văn bản pháp luật có quy định hành vi đó để xử lý.
Hành vi ép buộc trong kinh doanh thường xảy ra trong lĩnh vực kinh doanh nước giải khát. Các công ty có tiềm năng thường đến các cửa hàng để thoả thuận và ký hợp đồng đại lý bán hàng. Theo đó, công ty sẽ tài trợ một số tiền khá lớn, trang bị biển hiệu, bàn ghế, tủ lạnh, ly cốc…, với điều kiện các cửa hàng này chỉ được phép bán sản phẩm của họ mà không được có bất kỳ hình thức quảng cáo nào hoặc bán sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. Nếu vi phạm, các cửa hàng phải bồi hoàn toàn bộ số tiền tài trợ.
Mặc dù quan hệ đó được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, về hình thức là tự nguyện, nhưng thực chất lại mang tính áp đặt. Các cửa hàng vì nhiều lý do khác nhau, đã vô hình tiếp tay cho kiểu kinh doanh độc quyền của một số doanh nghiệp. Dưới giác độ pháp luật dân sự, những giao dịch như vậy thiếu yếu tố tự nguyện, tự định đoạt của một trong các bên tham gia và vì thế giao dịch đó hoàn toàn có thể bị tuyên bố là vô hiệu.
Trong lĩnh vực bảo hiểm, chúng ta cũng bắt gặp hiện tượng một số doanh nghiệp đã sử dụng các biện pháp hành chính để gây sức ép, lôi kéo, ép buộc người tham gia bảo hiểm phải mua bảo hiểm hoặc sử dụng dịch vụ môi
giới bảo hiểm tại một doanh nghiệp, trái với quyền tự do lựa chọn và giao kết hợp đồng. Việc cạnh tranh thông qua sự can thiệp hành chính thể hiện rõ trong nghiệp vụ bảo hiểm học sinh. Một số doanh nghiệp, vì muốn chiếm lĩnh thị trường, đã chấp nhận hỗ trợ nhà trường một nguồn kinh phí lớn, thậm chí cao hơn cả phí bảo hiểm thu được. Cách làm đó đã tạo điều kiện cho nhà trường gây sức ép đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khác, làm xấu đi bản chất của bảo hiểm học sinh.
* Thực tiễn hành vi gièm pha doanh nghiệp khác
Đó là hành vi của một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác. Hành vi gièm pha doanh nghiệp khác được điều chỉnh bởi quy định của nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Hành vi gièm pha, nói xấu là hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi chủ thể của hành vi gièm pha, nói xấu đó là một đối thủ cạnh tranh với nạn nhân của hành vi đó. Vì vậy, nếu thoả mãn các dấu hiệu của cạnh tranh không lành mạnh thì hành vi gièm pha doanh nghiệp khác dù được quy định trong văn bản pháp luật nào cũng được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và xử lý theo pháp luật cạnh tranh.
Thực tiễn hành vi gièm pha doanh nghiệp khác diễn ra cũng khá phổ biến và biểu hiện dưới nhiều hình thức như: nói xấu, bôi nhọ, vu khống đối thủ cạnh tranh, cố ý tung tin đồn, tạo dư luận xã hội, gây ấn tượng không tốt về một loại sản phẩm hàng hoá đang có uy tín trên thị trường, nhằm hạ uy tín sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Thị trường Việt Nam trong những năm qua đã xuất hiện nhiều hành vi gièm pha doanh nghiệp khác, tuy nhiên việc xử lý còn gặp khó khăn do không xác định được cụ thể người vi phạm và nguồn thông tin lan truyền trong xã hội. Điển hình có vụ việc Công ty Laska (doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) có sản phẩm nước tinh khiết Laska, đã bôi nhọ đối thủ cạnh tranh là
Công ty TNHH Trần Liên Thịnh, có sản phẩm cùng loại mang nhãn hiệu Waterman. Lợi dụng việc Bệnh viện Quốc tế Hà Nội có gửi tới Trung tâm Công nghệ và Bảo vệ môi trường - Viện Kỹ thuật Quân sự thực hiện xét nghiệm hai mẫu nước tinh khiết là Water Stream KC và Lasska, Công ty Laska đã dùng kết quả xét nghiệm của hai mẫu nước này sửa chữa nội dung thành một bản kết quả có nội dung giả mạo. Thay mẫu nước có tên Water Stream KC thành Waterman, thay mẫu có tên Lasska thành Laska; chuyển kết luận Water Stream chứa Nitrit (NO2) cao hơn tiêu chuẩn cho phép thành Waterman chứa NO2 cao hơn tiêu chuẩn. Thông tin đó đã được Laska tung ra trên thị trường, người tiêu dùng và khách hàng của Waterman đã đồng loạt thay đổi sản phẩm mới do không có điều kiện để thẩm định và xác minh thông tin. Sự việc đó đã gây thiệt hại rất lớn về uy tín, danh dự và tài sản cho Công ty TNHH Trần Liên Thịnh. Nhiều vụ việc tương tự cũng xảy ra như các loại tin đồn: Trong bia Tiger có gián, trong bia BIGI của Tiền Giang có ruồi, trong nước giải khát Coca-Cola có vật thể lạ, băng vệ sinh P&G có chứa chất Amiăng gây hại cho sức khoẻ người sử dụng. Những tin đồn có nội dung xấu đó đã gây ấn tượng không tốt về sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, làm mất uy tín và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bị gièm pha, nói xấu.
Theo quy định của pháp luật hiện hành:
Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc bồi thường thiệt hại… [43. Điều 9].
Các hành vi gièm pha doanh nghiệp khác còn ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng vì đã gián tiếp lừa dối người tiêu dùng, cản trở quyền lựa chọn sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và quyền được cung cấp thông tin trung