Pháp Luật Điều Chỉnh Các Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Ở Việt Nam

Hàn Quốc cũng có Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh và bảo vệ bí mật thương mại từ năm 1961 (được sửa đổi, bổ sung lần cuối vào tháng 2/2001), tuy nhiên trong Chương V của Luật Điều chỉnh độc quyền và thương mại lành mạnh 1980 (được sửa đổi, bổ sung lần cuối năm 2004) có quy định một loạt các hành vi thương mại không lành mạnh bao gồm từ chỗ giao dịch, phân biệt đối xử, loại trừ đối thủ cạnh tranh, dụ dỗ khách hàng của doanh nghiệp khác, lạm dụng vị thế trong giao dịch, giao dịch với điều khoản hạn chế hoặc cản trở hoạt động kinh doanh của đối tác, giao dịch với điều khoản ưu đãi bất hợp lý và các hành vi khác đe doạ đến hoạt động thương mại lành mạnh.

Có thể thấy các nước nêu trên đã có sự tham khảo và kế thừa nhiều hệ thống pháp luật để xây dựng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, phản ánh tại nhiều văn bản điều chỉnh khác nhau với những cách tiếp cận khác nhau. Mặt khác, cũng cần thấy rằng các quốc gia này đã có sự vận dụng quy định nhằm phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của mình, và có ý thức sử dụng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh như là “điều khoản quét” để khắc phục hoặc hạn chế sự vận hành sai lệch của thể chế thị trường tại mỗi quốc gia. Có thể lấy ví dụ các hành vi mua với giá cao bất hợp lý và bán với giá cao bất hợp lý tại Điều 6 và Điều 7 Quy định về các hành vi thương mại không lành mạnh của Nhật Bản hay hành vi trợ giúp người khác với lợi ích đặc biệt, hoặc công ty khác bằng các khoản ứng trước, cho vay, nhân công, bất động sản, cổ phiếu và trái phiếu, tài sản trí tuệ, hoặc giao dịch với những điều khoản ưu đãi đáng kể … tại khoản 7 Điều 23 Luật Điều chỉnh độc quyền và thương mại lành mạnh Hàn Quốc chính là quy định nhằm chống lại các biện pháp giao dịch nội bộ, bao cấp và trợ giá chéo giữa các bộ phận thuộc cùng một tập đoàn kinh tế có thể gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh chung của nền kinh tế.

1.2.3.4 Các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi

Đối với các quốc gia chuyển đổi từ hệ thống tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, quá trình xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh có những đặc thù riêng nhằm đảm bảo các đối tượng liên quan, bao gồm cả doanh nghiệp và các cơ quan quản lý có điều kiện làm quen và thích ứng với các hoạt động thị trường trong môi trường mới. Các quy định về cạnh tranh không lành mạnh cũng phản ánh sự vận động lập pháp chung tại các quốc gia này.

Tại Nga và Đông Âu, cùng với quá trình thay đổi thể chế kinh tế xã hội nhanh chóng và triệt để, các đạo luật chống cạnh tranh không lành mạnh cũng được ban hành với đầy đủ các bộ phận theo tiêu chuẩn của OECD, các nhà lập pháp coi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh là một nhân tố cơ bản để thúc đẩy tiến trình cải cách kinh tế

. Điều 10 Luật về Cạnh tranh và hạn chế hành vi độc quyền trên thị trường hàng hoá năm 1991 (sửa đổi, bổ sung lần cuối năm 2005) quy định cấm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm việc thông tin gian dối, sai lệch hoặc bóp méo có thể gây thiệt hại hoặc mất uy tín cho doanh nghiệp khác, các hành vi gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ hoặc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác…

Tại Trung Quốc, với tiến trình cải cách kinh tế từng bước, việc xây dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh cũng trải qua các giai đoạn. Trong khi các nhà lập pháp tỏ ra lưỡng lự trong việc xây dựng pháp luật về hạn chế cạnh tranh và chống độc quyền (Luật Chống độc quyền của CHND Trung Hoa mới được ban hành năm 2007) thì kể từ năm 1993, Trung Quốc đã có một đạo luật riêng về chống cạnh tranh không lành mạnh, quy định khá chi tiết các dạng hành vi gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, quảng cáo gian dối… Đáng chú ý là trong đạo luật này, một số hành vi hạn chế cạnh tranh như bán hàng dưới giá thành, áp đặt điều kiện bất hợp lý, đấu thầu thông đồng… đã được điều chỉnh với quan điểm coi đó là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Điều 6 của Luật quy định cấm các doanh nghiệp hoạt động công ích và các doanh nghiệp khác có vị trí độc quyền tự nhiên có hành vi cản trở cạnh tranh trên thị trường, và Điều 7 của Luật cấm các cơ quan nhà nước lạm dụng quyền lực để buộc các doanh nghiệp giao dịch hoặc ngăn cản hoạt động lưu thông hàng hoá.

CHƯƠNG 2


THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.


2.1. Pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam

Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh - 4

2.1.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn

Khái niệm

Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại bao gồm các hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó.

Theo điều 40 Luật cạnh tranh 2004, chỉ dẫn gây nhầm lẫn có thể được hiểu là chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lí và các yếu tố khác làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.

Biểu hiện của hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn

Theo quy định tại Điều 40 Luật cạnh tranh 2004, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn bao gồm hai hành vi vi phạm cụ thể:

Thứ nhất, hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn đại lí… làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh

Thứ hai, hành vi kinh doanh các sản phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.

Với hai hành vi này, doanh nghiệp vi phạm đã làm cho khách hàng nhầm lẫn sản phẩm của họ với những sản phẩm của doanh nghiệp khác bằng cách sử dụng các chỉ dẫn chứa đựng các thông tin làm sai lệch nhận thức của khách hàng, làm cho họ không phân biệt được sản phẩm của doanh nghiệp vi phạm với sản phẩm bị nhầm lẫn.

Khi tham gia vào thị trường hàng hóa, dịch vụ các doanh nghiệp đã vì những động cơ vụ lợi của mình tìm mọi cách để cạnh tranh với sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp đối thủ bằng cách làm cho khách hàng nói chung và trong đó có khách hàng của doanh nghiệp đối thủ bị nhầm lẫn trong việc quyết định sử dụng dịch vụ sản phẩm của

mình thông qua việc doanh nghiệp cạnh tranh không lành mạnh thực hiện hành vi tạo ra những chỉ dẫn trên sản phẩm có thể bị nhầm lẫn với sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác.


Hình thức xử lý

Doanh nghiệp sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

10.000.000 đồng trong các trường hợp sau:

Sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ của mình và của doanh nghiệp khác nhằm mục đích cạnh tranh;

– Kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn nói trên.

Doanh nghiệp vi phạm thuộc một trong các trường hợp sau đây sẽ bị phạt tiền từ

10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng:

– Hàng hoá, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, trang thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người, thuốc thú y, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ;

– Hàng hoá, dịch vụ liên quan được lưu thông, cung ứng trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.

Ngoài việc bị phạt tiền nêu trên, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là:

– Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;

– Buộc cải chính công khai.

Thực tiễn hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn

Hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn chủ yếu được biểu hiện qua các vi phạm liên quan đến chỉ dẫn thương mại (tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá, chỉ dẫn địa lý). Thực tế cạnh tranh cho thấy, không chỉ trước đây (trước khi ban hành Luật cạnh tranh 2004) mà hiện nay, các vi phạm này vẫn khá phổ biến, ngày càng tinh vi hơn, thể hiện dưới nhiều dạng, trong đó tập trung vào hành vi gây nhầm lẫn về tên gọi, xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp.

Thứ nhất, hành vi gây nhầm lẫn về tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý: Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm đến tên gọi xuất xứ hàng hoá tuy chưa phổ biến so với nhiều loại hành vi không lành mạnh khác, nhưng cũng không phải là

hiếm, tập trung vào những địa danh có "đặc sản nổi tiếng riêng có", ví dụ điển hình là tên gọi xuất xứ "Gạo tám thơm Hải Hậu" được in trên bao bì của nhiều loại gạo không có xuất xứ từ huyện Hải Hậu của tỉnh Nam Định; hay trường hợp sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn về xuất xứ hàng hoá của Công ty TNHH Young Titan (Đài Loan) đối với hai sản phẩm rượu Wisky Royal Reserve Old 21 Rare Premium sản xuất tại Mỹ và rượu Wisky pha chế Crowley sản xuất tại Pháp với nhãn hiệu và bao bì là "Scotch Wisky" bằng tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Những chỉ dẫn địa lý có danh tiếng lâu năm trên thị trường thế giới như Made in Japan, Made in USA, Made in Italy, Made in UK, Made in Korea... cũng thường bị lợi dụng sử dụng để gắn vào các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam, đánh vào tâm lý sính đồ ngoại của đa số người tiêu dùng Việt Nam. Các sản phẩm sử dụng chỉ dẫn địa lý gây nhầm lẫn này thường rất đa dạng từ quần áo, nồi cơm điện cho đến mỹ phẩm, giày dép…

Thứ hai, hành vi gây nhầm lẫn về nhãn hiệu hàng hoá (hàng nhái), bao bì, kiểu dáng công nghiệp: Có thể nói đây là các hành vi vi phạm rất phổ biến và cũng khá đa dạng trên thị trường. Hành vi gây nhầm lẫn về nhãn hiệu hàng hoá đều tập trung vào những nhãn hiệu nổi tiếng, vì đây được coi là một lợi thế kinh doanh đặc biệt quan trọng, tạo nên lợi thế so sánh về sản phẩm. Các sản phẩm bị sử dụng chỉ dẫn dễ gây nhầm lẫn về nhãn hiệu rất đa dạng từ nước uống, bột giặt, máy móc cho đến dược phẩm... Ví dụ như trường hợp của nước khoáng Lavie hiện đang có rất nhiều "anh em đồng hao" như: Lavile, Lavige, La vise; sản phẩm thuốc Decolgen (của Công ty dược phẩm Philipines) đến nay đã có 7 nhãn hiệu tương tự: Decoagen, Debacongen, Devicongen… với mẫu mã viên thuốc cũng được dập hình thoi nổi giống hệt.

Thứ ba, về hàng giả, hàng nhái: Có thể nêu ví dụ, hiện nay 80% số phụ tùng xe máy bày bán trên thị trường có nguồn gốc xuất xứ của các cơ sở sản xuất trong nước, nhưng lại được gắn thương hiệu ngoại. Theo Công ty Phạm & Associates (P&A) (công ty được Honda thuê đảm nhận việc bảo vệ kiểu dáng công nghiệp), qua điều tra hiện có 17 chi tiết máy của Honda bị làm giả, hoặc nhái trên thị trường.

Qua khảo sát các loại thức vi phạm phổ biến dưới dạng chỉ dẫn gây nhầm lẫn như trên, xin có một số nhận xét sau:

Một là, hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn đã và đang diễn ra khá phổ biến, tập trung vào một số vi phạm về tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và điều cũng đáng chú ý là việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn dưới dạng nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp diễn ra cũng khá phổ biến.

Hai là, hành vi xâm phạm kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá đều chưa được quy định trong Luật cạnh tranh 2004.

2.1.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh

Khái niệm

Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.

Bí mật kinh doanh theo định nghĩa tại khoản 10 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004 có những đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, thông tin đó không phải là hiểu biết thông thường

Tức là công chúng nói chung và các đối tượng quan tâm không thể tiếp cận, tìm hiểu thông tin bằng các biện pháp, phương tiện thông thường.

Thứ hai, có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với người không nắm giữ được hoặc không sử dụng thông tin đó.

Giá trị kinh tế mà thông tin đem lại xuất phát từ yếu tố bí mật, không phổ biến của nó. Một khi thông tin được tiết lộ, ai cũng biết, giá trị thương mại của thông tin và lợi thế cạnh tranh nó đem lại cho chủ sở hữu sẽ không còn. Đặc điểm này cũng đòi hỏi thông tin phải có giá trị ứng dụng về mặt kinh doanh nói chung, không nhất thiết phải gắn liền với tiến bộ khoa học – công nghệ và tiêu chí này sẽ được đánh giá trên hoàn cảnh thực tế. Lấy ví dụ thông tin là danh sách khách hàng hay đối tác kinh doanh của một doanh nghiệp có thể coi là một bí mật kinh doanh của doanh nghiệp đó, vì thông tin có thể đem lại lợi thế cạnh tranh mặc dù không thể hiện yếu tố “trí tuệ” hay “sáng tạo”. Đây cũng là một khía cạnh giải thích cho việc đặt bí mật kinh doanh vào khuôn khổ điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.

Thứ ba, được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.

Đặc điểm cuối cùng này đòi hỏi chủ sở hữu hay người nắm giữ bí mật kinh doanh hợp pháp (thông qua hợp đồng, ủy quyền) phải bảo mật thông tin bằng các biện pháp cần thiết, nhằm ngăn cản công chúng và các đối tượng quan tâm tiếp cận, tìm hiểu, thu thập và phổ biến thông tin. Điều đó cũng có nghĩa là về chủ quan, bản thân chủ sở hữu cũng phải ý thức được tính chất bí mật của thông tin. Nếu chủ sở hữu không có ý thức bảo mật, vô ý do cẩu thả hoặc chủ động cung cấp thông tin cho người khác, thì cho dù bí mật kinh doanh có giá trị thực sự, pháp luật cũng sẽ từ chối bảo hộ.

Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh theo quy định trong Luật cạnh tranh 2004 bao gồm các hành vi sau:

Thứ nhất, hành vi tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó.

Đây là dạng xâm phạm bí mật kinh doanh điển hình, khi bên vi phạm chủ động tiếp cận, thu thập thông tin bằng cách phá vỡ lại các biện pháp bảo mật của người có bí mật. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh nghiêm cấm việc tiếp cận, thu thập

thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được sự đồng ý của người sở hữu bí mật kinh doanh đó. Ví dụ: hành vi truy cập một cách trái phép vào hệ thống mà nguồn (máy tính) lưu trữ bí mật kinh doanh thuộc sở hữu của một doanh nghiệp khác.

Thứ hai, hành vi tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh.

Dạng hành vi này chủ yếu hướng đến các đối tượng thứ ba, không trực tiếp chiếm đoạt bí mật kinh doanh từ chủ sở hữu hay người nắm giữ hợp pháp bí mật nhưng có thể tiếp nhận từ người trực tiếp chiếm đoạt, những người thứ ba khác hoặc từ các nguồn công khai sau khi bí mật đã được bộc lộ. Kể cả trong trường hợp người này tiếp nhận thông tin một cách ngay tình, pháp luật cũng không cho phép họ tiếp tục sử dụng hay lưu truyền thông tin cho người khác.

Có thể nêu ra ví dụ tương đối phổ biến của hành vi này như: một cá nhân sau một thời gian làm việc cho một doanh nghiệp sản xuất và nắm được bí mật kinh doanh của doanh nghiệp đó, đã tiết lộ cho doanh nghiệp khác hoặc sử dụng cho chính mình để thành lập một doanh nghiệp trên cơ sở sử dụng thông tin về bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh.

Thứ ba, hành vi vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó.

Hợp đồng bảo mật là hợp đồng mà theo đó một bên hợp đồng được quyền tiếp cận thông tin bí mật về kinh doanh của một chủ sở hữu nhưng có nghĩa vụ phải bảo mật thông tin đó. Bên có nghĩa vụ bảo mật làm lộ thông tin về bí quyết kinh doanh cho bên thứ ba thì bị coi là xâm phạm bí mật kinh doanh theo quy định của điều luật. Ngoài ra, điều luật cũng quy định bất kì hành vi nào lợi dụng quan hệ sẵn có để lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có trách nhiệm bảo mật nhằm lấy được thông tin bảo mật về bí mật kinh doanh và sau đó tiết lộ thông tin đó cho người thứ ba thì cũng bị coi là xâm phạm bí mật kinh doanh.


Thứ tư, hành vi tiếp cận, thu thập các thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của các cơ quan nhà nước, hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, mục đích xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.

Biểu hiện của hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh

a) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh đó.

b) Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó.

c) Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ bí mật kinh doanh.

d) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người nộp đơn theo thủ tục xin cấp phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan có thẩm quyền.

e) Sử dụng, bộc lộ bí mật kinh doanh dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết bí mật kinh doanh đó do người khác thu được có liên quan đến một trong các hành vi quy định tại các điểm nêu trên.

f) Không thực hiện nghĩa vụ bảo mật quy định tại Điều 128 Luật Sở hữu trí tuệ.

Hình thức xử lý

Mức xử phạt đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh cụ thể như sau:

1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;

b) Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh;

c) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.

2. Ngoài việc xử phạt theo Khoản 1, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.

Thực tiễn hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh

Ở Việt Nam, khái niệm bí mật kinh doanh cũng như vấn đề bảo vệ, gìn giữ bí mật kinh doanh còn khá mới mẻ và chưa thực sự được coi trọng. Các chế tài xử lý đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh cũng chưa thực sự nghiêm khắc (chủ yếu áp dụng biện pháp dân sự, hành chính). Nguyên nhân là do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh ít khi ảnh hưởng lớn tới người tiêu dùng và toàn xã hội mà chỉ ảnh hưởng tới chủ sở hữu nó, do vậy, biện pháp tốt nhất hiện nay đối với doanh nghiệp để bảo vệ bí mật kinh doanh của mình là tự thiết lập các chiến lược, kỹ thuật bảo mật. Ngoài ra còn do hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh hiện nay vô cùng đa dạng rất khó phát giác, điều chỉnh; mức độ cạnh

Xem tất cả 85 trang.

Ngày đăng: 21/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí