Căn Cứ Áp Dụng Chế Tài Buộc Thực Hiện Đúng Hợp Đồng

nhiệm suy đoán và dù lỗi cố ý hay vô ý cũng không làm tăng giảm trách nhiệm. Ví dụ như khi người bán giao hàng chậm, người mua có quyền suy đoán ngay là người bán có lỗi vì không giao hàng theo đúng thời gian thỏa thuận và như vậy, người mua có thể quy trách nhiệm cho người bán. Khi bị quy trách nhiệm, bên vi phạm muốn thoát trách nhiệm phải chứngminh là mình không có lỗi, chừng nào không chứng minh được thì đương nhiênvẫn bị coi là có lỗi và phải chịu trách nhiệm.

c/Trái chủ bị thiệt hại vật chất:


Đây là yếu tố cần thiết, đặc biệt cho trường hợp muốn quy trách nhiệm đòi bồi thường thiệt hại. Thông thường, thiệt hại mà trái chủ phải gánh chịu có thể làthiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Song, Luật thương mại Việt Nam cũngnhư luật các nước thường chỉ thừa nhận những thiệt hại về vật chất (thiệt hại về tài sản, hoặc các quyền có giá trị tài sản) mới là yếu tố để quy trách nhiệm.

Thiệt hại về tài sản thường gồm các loại thiệt hại sau: tổn thất thực tế và các khoản lợi bị bỏ lỡ, các khoản thu sẽ được nhận nếu bên kia thực hiện đúng hợp đồng.

- Tổn thất thực tế: Là một loại thiệt hại mang tính chất thực tế, có thể tính toán được một cách cụ thể. Tổn thất thực tế gồm có:

+ giảm tài sản bằng hiện vật: như khi một bên vi phạm một nghĩa vụ nào đó làm cho tài sản của bên kia giảm sút (người bán giao hàng kém phẩm chất so với thỏa thuận làm cho bên mua không nhận được hàng đúng chất lượng do đó phải bán hạ giá hoặc phải sử dụng với mục đích khác đi...)

+ các chi phí đã chi ra và chi thêm: các chi phí đã chi ra như chi phí đàm phán, ký kết hợp đồng, chi phí mở L/C, chi phí thuê tàu mua bảo hiểm cho hàng hóa nhưng người bán không giao hàng. Các chi phí chi thêm trong quá trình

thực hiện hợp đồng như chi phí bồi thường cho người thứ ba do bên bán giao chậm hàng làm cho bên mua bị phạt giao chậm, chi phí lưu kho bãi mà người bán phải trả do người mua (theo điều kiện FOB) chưa đến lấy hàng, chi phí phạt dỡ chậm mà người bán phải trả cho người cho người chuyên chở do người mua không chịu đến nhận hàng...

Tất cả các khoản bị giảm sút về tài sản và chi phí đã chi và chi thêm này đều có thể quy ra giá trị vật chất cụ thể và là cơ sở choviệc đòi bồi thường thiệt hại.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

- Các khoản lợi bị bỏ lỡ, các khoản thu đáng lý ra được nhận nếu bên kia thực hiện đúng hợp đồng nhưng đã không được nhận. Đây chính là những khoản lợi mất hưởng mà khi ký kết hợp đồng, các bên đều mong đợi. Những khoản lợi này dù trên thực tế nếu không có vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm có nhận được hay không không quan trọng mà cứ có vi phạm gây thiệt hại làm mất khoản lợi dự ước đó, người bị vi phạm vẫn được quyền đòi bên vi phạm. Để đòi bồi thường thiệt hại thực tế, bên bị vi phạm phải chứng minh đượclà mình có thiệt hại đó và để thoát trách nhiệm, bên vi phạm phải chứng minh ngược lại.

d/ Có mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại vật chất:

Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 5

Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra các thiệt hại, còn thiệt hại thực tế là hậu quả trực tiếp của những hành vi đó. Ví dụ như người bán giao hàng chậm so với thời gian quy định trong hợp đồng làm giá hàng giảm so với giá của thời kỳ lẽ ra hàng được giao, và do vậy người mua bị bỏ lỡ khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Vậy hành vi giao hàng chậm là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại tài sản cho người mua (không được nhận khoản lãi mà mình có quyền được hưởng từ quan hệ hợp đồng). Hay trường hợp người bán đã giao hàng theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng nhưng người mua không chịu ra nhận hàng tại cảng đến, làm phát sinh chi phí lưu tàu vì hành vi không nhận hàng của

người mua là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả người bán phải chi thêm các chi phí lưu tàu, bảo quản hàng hóa. Nghĩa vụ chứng minh quan hệ nhân quả này thuộc về bên bị vi phạm. Điều cần chú ý là khi chứng minh phải loại trừ các thiệt hại gián tiếp, thiệt hại không lường trước được, thiệt hại đoán trước. Trên thực tế, nghĩa vụ chứng minh thiệt hại trực tiếp lại rơi vào bên bị vi phạm vì bên bị vi phạm muốn đòi được bồi thường càng nhiều càng tốt nên thường liệt kê các thiệt hại ra. Bên vi phạm để không phải bồi thường tất cả các thiệt hại mà trái chủ đã nêu thì phải chứng minh được rằng chỉ một phần thiệt hại xảy ra là do việc vi phạm nhiệm vụ của mình, thiệt hại tài sản khác còn lại do một số nguyên nhân khác không phải do lỗi của mình bằng cách đưa ra các văn bản, bằng chứng có liên quan.

2. Các loại chế tài do vi phạm hợp đồng:


Khi vi phạm hợp đồng trong hoạt động mua bán hàng hóa, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trước bên bị vi phạm thông qua các hình thức trách nhiệm gọi là chế tài.

Theo pháp luật thương mại Việt Nam, các chế tài thương mại được hiểu là những biện pháp pháp lý mang tính tài sản do bên bị vi phạm lựa chọn để áp dụng đối với bên vi phạm nhằm mục đính ngăn ngừa, trừng trị và giáo dục. Như vậy, các chế tài thương mại được áp dụng là để khôi phục về mặt vật chất cho bên bị vi phạm hoặc là để ngăn ngừa thiệt hại hay có ý nghĩa trừng phạt về mặt vật chất đối với bên vi phạm hợp đồng. Do đó, các chế tài này được các bên áp dụng cho các vi phạm xuất hiện từ lúc ký kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng.

Theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam 2005, chế tài do vi phạm hợp đồng bao gồm các chế tài sau:

- Bồi thương thiệt hại;


- Buộc thực hiện đúng hơp đồng;

- Phạt vi phạm


- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng;


- Đình chỉ thực hiện hợp đồng;


- Huỷ hợp đồng;


- Các chế tài khác do các bên tự thoả thuận.


2.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng


2.1.1.Khái niệm

Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dựng cỏc biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh (khoản 1 điều 297 Luật Thương mại 2005).

Mục đích của các bên khi ký kết hợp đồng là muốn các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng được thực hiện đúng, đầy đủ và thiện chí, mang lại lợi ích kinh tế cho mỗi bờn. Đây chính là cơ sở thực tiễn của biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng, một biện pháp được áp dụng phổ biến khi có hành vi vi phạm hợp đồng.

Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được áp dụng là nhằm đảm bảo thực hiện trên thực tế hợp đồng đã ký kết, làm cho nghĩa vụ hợp đồng phải được tiếp tục thực hiện. Các bên xuất phát từ mục tiêu kinh doanh để ký kết hợp đồng chứ không phải là nhằm đạt được lợi ích từ việc nộp phạt hay bồi thường thiệt hại từ phía bạn hàng. Trong nhiều trường hợp tiền phạt hay bồi thường thiệt hại không thể thay thế lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng đã ký kết của các bên.

2.1.2 Căn cứ áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng

Căn cứ áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bao gồm:

- Có hành vi vi phạm hợp đồng


- Có lỗi của bên vi phạm


Việc các bên không thực hiện, thực hiện không đúng cam kết trong hợp đồng, như: không giao hàng, giao hàng thiếu, giao hàng sai chất lượng...là cơ sở phát sinh chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Bên có quyền lợi bị vi phạm chỉ có quyền buộc bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng nếu bên vi phạm có lỗi.

Như vậy, đối với hình thức chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thương mại căn cứ áp dụng chỉ bao gồm hai căn cứ trên là đủ để bên bị bi phạm áp dụng đối với bên vi phạm.

Luật Thương mại (2005) cho phép các bên kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng hoặc từ chối thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng:

“1.Trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thoả thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây:

a) Năm tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng;

b) Tám tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng.

2. Trường hợp kéo dài quá các thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại.”

Như vậy, trong trường hợp bất khả kháng (thiên tai, địch hoạ, ...), hành vi

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng không bị coi là có lỗi. Bên bị vi phạm không có quyền buộc bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng. Ngay cả khi hết thời gian thực hiện hợp đồng được tính thêm khi có bất khả kháng, bên bị vi phạm cũng không thể áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và khụng bờn nào được quyền đòi bên kia bồi thường thiệt hại , bởi vì Điều 296 không cho phép các bên được quyền từ chối thực hiện hợp đồng.

2.1.3. Nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng


Nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm buộc bên vi phạm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc dựng cỏc biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí tổn thất phát sinh.

Khi bên vi phạm giao hàng thiếu, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao đủ hàng, cung ứng dịch vụ đúng theo thoả thuận trong hợp đồng. Nếu bên vi phạm giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm không thực hiện yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải bù chênh lệch giá. Bên bị vi phạm cũng có thể tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ và yõu cầu bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý.

Bên có quyền lợi bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng không chỉ là bên mua hàng mà còn có thể là bên bán hàng, khi giao hàng hoá, dịch vụ đúng cam kết trong hợp đồng nhưng không đựợc tiếp nhận. Bên vi phạm là bên mua thì bên bán

có quyền yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua được quy định tại hợp đồng hoặc theo quy định của Luật Thương mại. Đây là một bổ sung và là một điểm mới quan trọng của Luật Thương mại (2005) so với Luật Thương mại (1997).

Để áp dụng biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể gia hạn một thời gian hợp lý để bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ. Việc gia hạn này hoàn toàn do bên bị vi phạm quyết định trên cơ sở xem xét lợi ích của việc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Vì vậy, việc gia hạn để tiếp tục thực hiện hợp đồng nằm trong tiến trình áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng và hoàn toàn không phải là sự thoả thuận lại về thời gian thực hiện hợp đồng giữa các bên. Nếu không có thỏa thuận nào khác, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền yêu cầu áp dụng chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại nhưng không được áp dụng chế tài khác (đình chỉ thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, huỷ hợp đồng). Khi bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Theo quy định của pháp luật, bên bị vi phạm quyết định áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trước khi sử dụng các chế tài hợp đồng khác. Bên bị vi phạm áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong những trường hợp mà việc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của mình. Đối với những loại hàng hoá mang tính chất mùa, vụ, phụ thuộc vào từng thời điểm trong năm (bánh trung thu, nước giải khát, chăn đệm...) thì bên bị vi phạm không thể lựa chọn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nếu thời cơ tiêu thụ các loại sản phẩm trờn đó hết. So với các hình thức trách nhiệm khác, buộc thực hiện đúng hợp đồng là một biện pháp chế tài mang tính mềm dẻo, thiện

chí và hiệu quả của nó có khả năng hạn chế thiệt hại.


2.2. Chế tài phạt vi phạm:

a/ Chế tài phaṭ vi pham


đã đươ ̣ c quy điṇ h trong các văn bản pháp luâṭ như

Luâṭ Thương mai 1997, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Bô ̣luâṭ Dân sự 2005…

Và với sự ra đời của chế tài phạt vi phạm được quy định trong Luật Thương mại

2005 thì phạt vi phạm thực sự trở thành môt

chế điṇ h quan tron

g để bảo vê ̣các bên

trong quan hê ̣thương maị. Hiện nay, chế điṇ h này ngày càng đươc các bên sử dung

nhiều hơn như môt

biên

pháp hữu hiêu

để bảo vê ̣quyền lơi

của mình trong các

quan hê ̣hơp

đồng hơp

tác kinh tế.


Luâṭ Thương mai 2005 quy điṇ h tại điều 300 như sau: “Phạt vi phạm là việc

bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận”. Theo quy điṇ h trên thì chủ thể có quyền đòi phạt vi phạm là bên bị vi phạm , chủ thể có nghĩa vụ là bên vi phạm , khách thể

trong quan hê ̣này mà các bên hướng đến là môt khoản tiêǹ phaṭ vi pham.


Phạt vi phạm chỉ có thể xảy ra trong trường hợp các bên đã có thỏa thuân cu

thể trong hơp

đồng . Điều này có nghia

phaṭ vi pham

là sự thỏa thuân

giữa các bên

nên môt

bên không thể yêu cầu bên kia phải chiu

phaṭ vi pham

nếu các bên không

có thỏa thuận trong hợp đồng về vấn đề này. Tuy nhiên trên thưc

tế , vân

có những

trường hơp

môt

bên đòi đươc

phaṭ vi pham

măc

dù các bên không hề có quy điṇ h

gì về vấn đề này , đơn giản chỉ vì nghi ̃ rằng mình có quyền đươc pháp luâṭ bảo vê

trong trường hơp

quyền và lơi

ích của mình đã không đươc

bên kia tuân thủ theo

hơp

đồng. Do không am hiểu về pháp luâṭ mà các bên đã không phân biêṭ đươc

các

biên

pháp chế tài theo quy điṇ h của pháp luâṭ và không bảo vê ̣đươc

quyền lơi

chính đáng của mình môt cách chính xác và triêṭ để nhất.


Vì vậy, để chế định phạt vi phạm có thể phát huy hết khả năng trong việc

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/10/2023