Nếu không có chứng cứ hoặc dấu vết về nguồn gốc của tài sản thì khi có tranh chấp, quyền sở hữu riêng của vợ chồng phải được chứng minh bằng văn bản. Trường hợp không có bản kiểm kê tài sản hoặc không có chứng cứ nào được xác lập từ trước, thẩm phán có thể xem xét mọi loại giấy tờ, đặc biệt là các loại giấy tờ, sổ sách của gia đình cũng như các tài liệu của ngân hàng và các hoá đơn thanh toán. Thẩm phán cũng có thể chấp nhận lời khai của nhân chứng hoặc suy đoán nếu nhận thấy vợ, chồng không có khả năng cung cấp chứng cứ bằng văn bản.
3.2.2. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Khi bàn luận về tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng, một số nhà nghiên cứu cho rằng quy định tại khoản 20 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 giải thích từ ngữ: “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình”.
Và khoản 1 Điều 44 Luật HN&GĐ năm 2014: “tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng”, không rõ như thế nào là “thiết yếu”. Vì:
Đối với những người, những gia đình với mức sống khác nhau thì khái niệm đồ dùng thiết yếu sẽ là không giống nhau. Ví dụ đối với một người, gia đình này thì chỉ các đồ dùng sinh hoạt hàng ngày như giày dép, mũ, áo…là đồ dùng thiết yếu nhưng đối với những người khác, gia đình khác lại xem máy tính cá nhân, xe máy…hay các vật dụng có giá trị khác là tài sản phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của bản thân. Việc pháp luật quy định như vậy phải chăng tạo nên sự linh hoạt, linh động và đồng thời trao quyền tài phán cho cơ quan Tòa án trong việc xem xét giải quyết dựa trên
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng gia đình khi phát sinh tranh chấp [30].
Tuy nhiên, việc quy định không rõ ràng lại gây khó khăn khi áp dụng trong thực tiễn hoặc việc áp dụng pháp luật không thống nhất, không đảm bảo công bằng. Do đó, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm cần thiết phải
có hướng dẫn chi ti ết về “tài s ản phục vụ nhu cầu thiết yếu” để viêc
áp dung
pháp luật được thống nhất. Theo chúng tôi, có thể hướng dẫn theo hướng định lượng rõ giá trị của tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu, trừ trường hợp tài sản phụ vụ nhu cầu khám, chữa bệnh. Cụ thể: “Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu là những tài sản phục vụ nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống có giá trị dưới 05 triệu đồng và tài sản để phục vụ nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh của mỗi người, mỗi gia đình”
Có thể bạn quan tâm!
- Tài Sản Phục Vụ Nhu Cầu Thiết Yếu Của Vợ, Chồng
- Nghĩa Vụ Riêng Của Vợ, Chồng Về Tài Sản
- Căn Cứ Xác Định Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 - 14
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
3.2.3. Quy điṇ h han
chế quyền tài sản riêng củ a vơ,̣ chồng
Theo chúng tôi, trong quy định "vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ" [19, khoản 4 Điều 4] sử dụng khái niệm “nguồn sống duy nhất” là chưa hợp lý, vì kể cả khi hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng chiếm tới 99% nguồn sống của gia đình, thì cũng không phải là nguồn sống duy nhất. Do đó, đề nghị xem xét, chỉnh sửa cụm từ “nguồn sống duy nhất” thành “nguồn sống chủ yếu” của gia đình, tương tự như quy định: “Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình” [19, khoản 2 Điều 35]
3.2.4. Chia tài sản chung củ a vơ ̣chồng trong thời kỳ hôn nhân
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân , nhưng lại không có quy định người thứ ba cũng có quyền yêu cầu Tòa án chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân , chúng tôi cho rằng điều này là chưa phù hợp với tình hình thực tế.
Bởi lẽ, khoản 3 Điều 44 Luâṭ HN&GĐ năm 2014 quy điṇ h: "nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó". Tuy nhiên, có trường hợp vợ hoặc chồng không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ về tài sản riêng của mình nhưng không yêu cầu chia tài sản chung để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Theo đó , pháp luâṭ không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Vì vậy , thiết nghi ̃ pháp lu ật cần bổ sung quy điṇ h nếu người thứ ba có căn cứ cho rằng, vợ chồng không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người thứ ba có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đồng thời, pháp luật cũng cần quy định rõ các trường hợp hạn chế quyền yêu cầu chia tài sản chung của vơ ̣ chồng trong thời kỳ hôn nhân ,
như: yêu cầu của người thứ ba không đươc
công nh ận trong trường hơp
vi ệc
chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ.
Bên cạnh đó, Luật cũng không quy định về người có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu theo quy định tại Điều 42 và hậu quả pháp lý của việc Tòa án tuyên bố vô hiệu đó. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần xem xét bổ sung những quy định này.
3.2.5. Nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Về quy định tính đến yếu tố công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung, thực tiễn xét xử phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn có nhiều vướng mắc. Cụ thể, khi xác định công sức đóng góp trước hết phải xác định vợ, chồng có công sức hay không, trong khi đó công sức có nhiều loại như công sức tạo lập tài sản; công sức bảo quản tài sản; công sức tôn tạo, phát triển, làm tăng giá trị của tài sản; hoặc
công sức chăm sóc, nuôi dưỡng người để lại di sản… Ngoài ra, xác định công sức đóng góp phải phân biệt với các chi phí. Chi phí là khoản tiền đã bỏ ra để tôn tạo tài sản như thuê người, mua vật liệu sửa nhà; để chăm sóc, nuôi dưỡng người để lại di sản như: tiền ăn, mặc, nước uống, thuốc…. Đối với các khoản chi phí luôn tính toán được cụ thể và thường có hóa đơn để chứng minh. Công sức là sức lực, là thời gian… mà con người bỏ ra để tôn tạo tài sản, quản lý, giữ gìn tài sản hoặc chăm sóc người để lại di sản.... và công sức không tính toán được cụ thể [23]. Như vậy, nếu chỉ có duy nhất một quy định là việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn việc có tính đến yếu tố công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung thì khi áp dụng trong thực tiễn sẽ rất khó khăn trong việc xác định công sức đóng góp của vợ, chồng. Do đó, thiết nghĩ nên ban hành quy định hướng dẫn chi tiết về việc xác định công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung thực hiện như thế nào, căn cứ xác định như thế nào.
KẾ T LUÂN
CHƯƠNG 3
1. Thưc
tiên
xét xử của Tòa án về HN &GĐ ngày càng gia tăng về sô
lươn
g vu ̣viêc
, bình quân hàng năm , các vụ việc hôn nhân gia đình chiếm
khoảng trên 30% trong tổng số vụ việc Tòa án đã thụ lý, giải quyết. Hơn nữa,
các vụ việc về HN &GĐ ngày càng phức tạp , đăc
biêṭ là các tranh chấp về tài
sản giữa vợ chồng. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn tồn tại những vướng mắc, bất cập, làm cho hoạt động xét xử chưa được hiệu quả, vẫn còn tình trạng áp dụng luật không thống nhất, hoặc áp dụng đúng pháp luật nhưng không phù hợp với tình hình thực tế, không phản ánh đúng bản chất của quan hệ hôn nhân.
2. Bên cạnh những điểm mới, tiến bộ, Luật HN&GĐ cũng còn một số điểm cần nghiên cứu, xem xét, chỉnh sửa như quy điṇ h về căn cứ xác điṇ h t ài sản chung của vợ chồng , tài sản riêng của vợ , chồng; quy định hạn chế quyền
tài sản riêng của vợ chồng ; quy điṇ h chia tài sản chung của vơ ̣ chồng trong thời kỳ hôn nhân ; quy điṇ h về nguyê n tắc giải quyết tài sản chung của vơ ̣ chồng khi ly hôn.
KẾT LUẬN
Chế độ tài sản của vợ chồng đã trở thành một trong những nội dung quan trọng mà Luật HN&GĐ cần xây dựng, hoàn thiện. Do đó, việc phân tích những vấn đề lý luận và nội dung của chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong Luật HN&GĐ năm 2014 là một vấn đề mang tính khách quan và cấp thiết hiện nay nhằm hiểu rõ hơn quy định pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng pháp định, không ngừng hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng nói riêng và hoàn thiện pháp luật HN&GĐ Việt Nam nói chung. Qua đó, góp phần xây dựng và phát triển gia đình hạnh phúc, bền vững
Với đề tài “Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014”, luận văn được hoàn thành với những nội dung chủ yếu như sau:
1. Xây dựng khái niệm chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo khoa học pháp lý Việt Nam. Phân tích đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở lý luận và thực tiễn của chế độ tài sản vợ chồng pháp định.
2. Khái quát chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong pháp luật một số nước trên thế giới. Từ đó, có thể thấy hệ thống pháp luật HN&GĐ nói chung và chế độ tài sản vợ chồng nói riêng ở nước ta đã trải qua nhiều thời kỳ, chế độ tài sản pháp định được quy định ngay cả trong cổ Luật, từ những quy định mang tính khái quát, cô đọng, đã ngày càng được hoàn thiện hơn, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với xu hướng lập pháp của thế giới, thể hiện tư tưởng quan điểm lập pháp tiến bộ của nước ta.
3. Phân tích nội dung Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014. Trên cơ sở kế thừa, phát triển hệ thống pháp luật HN&GĐ trước đây và đảm bảo sự phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng dự liệu chế độ tài sản vợ chồng pháp định là chế độ cộng đồng tạo sản, quy định trong quan hệ tài sản giữa vợ
và chồng tồn tài ba khối tài sản: tài sản chung của vợ chồng; tài sản riêng của chồng; tài sản riêng của vợ. Luận văn phân tích căn cứ xác lập tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản; quy định về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn, một bên vợ, chồng chết trước, phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
4. Trong quá trình phân tích nội dung Chế độ tài sản vợ chồng pháp
định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014, luận văn so sánh những nội dung này với các quy định về chế độ tài sản vợ chồng pháp định trong Luật HN&GĐ trước đây. Qua đó, thấy được những điểm mới, tiến bộ của Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014.
5. Thưc
tiên
xét xử của Tòa án về HN &GĐ ngày càng gia tăng về sô
lươn
g vu ̣viêc
và ngày càng phứ c tap
về nội dung, đăc
biêṭ là các tranh chấp về
tài sản giữa vợ chồng. Trong khi đó, những quy định của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn tồn tại những vướng mắc, bất cập, làm cho hoạt động xét xử chưa được hiệu quả, vẫn còn tình trạng áp dụng luật không thống nhất, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và người thứ ba.
Trên cơ sở những phân tích, đánh giá nêu trên, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Chế độ tài sản vợ chồng pháp định theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật HN&GĐ Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BLDS Bắc Kỳ 1931.
2. BLDS Nhật Bản.
3. BLDS Sài Gòn năm 1972.
4. BLDS Trung Kỳ năm 1936.
5. Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan. các quyển I - VI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 1995
6. BLDS Việt Nam năm 2005.
7. Bộ luật giản yếu Nam kỳ 1883.
8. Chính phủ (2001), Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000.
9. Chính phủ (2013), Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng.
10. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ.
11. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980;
12. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
13. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
14. HVLL (Bộ luật Gia Long), Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội;
15. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23.12.2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000.
16. Luật HN&GĐ Việt Nam năm 1959;
17. Luật HN&GĐ Việt Nam năm 1986;
18. Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000;
19. Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014;
20. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005;