trái ngược nhau. Do đó, cần thiết phải có hướng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Từ việc nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Qua phân tích, đánh giá một số công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến chế định NBC, đặc biệt qua thực tiễn công tác và với mong muốn góp phần nâng cao việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về chế định NBC, tác giả đã lựa chọn và thực hiện nghiên cứu ở cấp độ Thạc sĩ với đề tài: “Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương” làm Luận văn nghiên cứu của mình là hết sức cần thiết và có ý nghĩa không những về lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế định NBC là chế định hết sức quan trọng và cần thiết trong TTHS. Bởi xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt của NBC. Trong các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu, nhà luật học,...đã có nhiều đề tài nghiên cứu về chế định này ở những mức độ, khía cạnh, phương diện khác nhau như: “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS” của PGS.TS. Hoàng Thị Sơn; “Bào chữa cho các nhóm dễ bị tổn thương theo Luật TTHS Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Địa vị pháp lý của Luật sư trong hoạt động tranh tụng” và “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội” của PGS.TS.LS. Phạm Hồng Hải; “Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự” của TS. Nguyễn Văn Tuân; “Hành nghề Luật sư trong vụ án hình sự” của TS.LS. Phan Trung Hoài; “Về chế định người bào chữa” của TS. Đinh Văn Quế; “Mô hình TTHS Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Dương Thanh Biểu; “Vấn đề tranh tụng trong hoạt động TTHS và việc thể chế hóa trong quá trình hoàn thiện BLTTHS Việt Nam” của TS. Lê Hữu Thể; “Mô hình TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của PGS. TS Nguyễn Thái Phúc,…
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chủ yếu đưa ra các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, về vai trò của một chủ thể bào chữa đó là LS mà ít có các công trình khoa học nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, thống nhất và hệ thống về khái niệm chế định NBC, chủ thể, đối tượng bào chữa, đặc biệt là chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về chế định Trợ giúp viên pháp lý với tư cách là một chủ thể bào chữa mặc dù chế định này đã được qui định trong Luật Trợ giúp pháp lý từ năm 2006.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây cho phép một lần nữa khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. Đây là một trong những vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa trong khoa học TTHS cũng như thực tiễn áp dụng ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của của Luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật có liên quan về chế định NBC. Để phục vụ mục đích này, đề tài nghiên cứu tập trung làm sáng tỏ những quan điểm khoa học, những qui định của pháp luật TTHS về chế định NBC.
- Tổng hợp số liệu thống kê trong hoạt động thực tiễn áp dụng chế định NBC trên địa bàn tỉnh Hải Dương, đưa ra phân tích, đánh giá những điểm còn bất cập, hạn chế khi áp dụng chế định này trong thực tiễn.
Có thể bạn quan tâm!
- Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương - 1
- Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương - 3
- Vị Trí, Vai Trò Của Người Bào Chữa Trong Tố Tụng Hình Sự
- Chế Định Người Bào Chữa Trong Một Số Mô Hình Tố Tụng Hình Sự Trên Thế Giới
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
- Đề xuất những giải pháp phù hợp và khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về chế định NBC, góp phần nâng cao chất lượng bào chữa, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được bảo đảm”; “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” mà BLTTHS năm 2003 và Hiến pháp 2013 đã ghi nhận.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về chế định NBC như: khái niệm NBC và chế định NBC; chủ thể; đối tượng bào chữa; địa vị pháp lý NBC; chế định NBC trong một số mô hình TTHS trên thế giới.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng áp dụng chế định NBC trên địa bàn tỉnh Hải Dương, đồng thời phân tích làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của hạn chế đó.
- Đề tài nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chế định NBC trong luật TTHS Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chế định NBC trong Luật TTHS Việt Nam hiện hành và trong một số mô hình TTHS trên thế giới, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng chế định này trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2013.
3.4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm khoa học và những qui định của pháp luật TTHS Việt Nam và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến chế định NBC, những tư liệu thực tiễn của các CQTHTT, Đoàn LS, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Bên cạnh đó, những văn bản pháp luật của một số nước trên thế giới có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu cũng được đề cập nhằm làm sáng tỏ chế định NBC.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của Luận văn: là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng của Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp được thể hiện
trong Nghị quyết số 08[21] và Nghị quyết số 49[22], Hiến pháp năm 2013. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng, kế thừa các thành tựu khoa học của chuyên ngành pháp lý, luận điểm nghiên cứu của các nhà luật học, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết chuyên ngành pháp lý được đăng trên các sách, báo, tạp chí, các trang báo điện tử về chế định NBC trong TTHS.
Cơ sở thực tiễn của Luận văn: dựa trên cơ sở nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan, các tư liệu thực tiễn của các CQTHTT, Đoàn LS, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong việc áp dụng chế định NBC.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử và để thực hiện tốt những nhiệm vụ đặt ra của đề tài, những phương pháp chung được áp dụng để nghiên cứu là: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, quy nạp, khảo sát thực tế,…
5. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
Đây là một trong những công trình khoa học ở cấp độ Thạc sỹ tiếp cận về chế định NBC trong pháp luật TTHS Việt Nam. Đề tài nghiên cứu có những đóng góp mới như sau:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chế định NBC trong Luật TTHS Việt Nam và trong một số mô hình TTHS trên thế giới. Từ đó, đưa ra khái niệm khoa học về chế định NBC.
- Luận văn khảo cứu các qui định pháp luật về chế định NBC, đánh giá thực trạng áp dụng các qui định đó trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Phân tích làm rõ những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế khi áp dụng chế định này, nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về chế định NBC, đặc biệt là bổ sung thêm một số chủ thể, đối tượng bào chữa chưa được qui định trong BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn có những đóng góp nhất định trên phương diện lý luận về chế định NBC.
Về mặt thực tiễn: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nâng cao chất lượng bào chữa, đảm bảo thực hiện nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo”. Ngoài ra, Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các sinh viên, học viên cao học thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật, những nhà hoạt động thực tiễn và những ai quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt, có thể là tài liệu tham khảo trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến chế định NBC.
7. Bố cục của Luận văn
Bố cục của Luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Ngoài phần Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Danh mục các bảng, Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về chế định người bào chữa
Chương 2: Qui định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về chế định NBC và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các qui định của pháp luật TTHS về chế định NBC
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƯỜI BÀO CHỮA
1.1. NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH NGƯỜI BÀO CHỮA
1.1.1. Khái niệm chế định người bào chữa
NBC là một chế định quan trọng trong pháp luật TTHS Việt Nam, cho đến nay vẫn cần được làm sáng tỏ về mặt lý luận làm tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo”. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý và thực tiễn TTHS hiện nay, chưa có khái niệm thống nhất về chế định này, nên vẫn tồn tại nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau thể hiện trong các sách chuyên khảo, giáo trình, các bài báo, tạp chí cũng như trong qui định của pháp luật TTHS. Để đưa ra khái niệm khoa học về chế định NBC chúng ta cần hiểu được khái niệm chế định pháp luật và khái niệm NBC. “Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống nhau nhằm để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng”[57, tr.402].
Về khái niệm NBC, trong khoa học pháp lý hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng: “NBC là người tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết” [16, tr.153]. Tương tự như vậy, có quan điểm cho rằng: “NBC trong TTHS là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”[2]. Quan điểm khác cho rằng: “NBC là người được các CQTHTT chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra
những tình tiết xác định NBTG, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của NBTG, bị can, bị cáo và giúp đỡ NBTG, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ” [58, tr.137]
Có thể nói, các quan điểm trên xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau trên cơ sở nghiên cứu chế định NBC trong Luật TTHS Việt Nam và thực tiễn thi hành luật. Mỗi quan điểm đều nhấn mạnh một hoặc một số đặc điểm của NBC, chưa đưa ra một cách khái quát, đầy đủ khái niệm NBC. Do đó, dễ dẫn đến cách hiểu khái niệm NBC chỉ bao gồm trách nhiệm, mục đích của NBC trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo mà chưa khái quát hết các qui định của pháp luật TTHS về điều kiện, tiêu chuẩn, vị trí, vai trò tham gia tố tụng của NBC, chưa mở rộng việc bào chữa đối với người bị bắt, người bị kết án mặc dù việc giúp đỡ họ về mặt pháp lý và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ là vô cùng quan trọng và cần thiết.
Vì vậy, theo chúng tôi một khái niệm đầy đủ về NBC phải thể hiện được các đặc điểm về NBC và phạm vi đối tượng bào chữa như sau:
Thứ nhất, NBC là người tham gia tố tụng. Đặc điểm này nhằm phân biệt NBC với người THTT. Bởi người THTT là người nhân danh và sử dụng quyền lực nhà nước để giải quyết VAHS. NBC chỉ là người tham gia làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo, không phải là người trực tiếp giải quyết VAHS.
Thứ hai, NBC tham gia tố tụng với mục đích đưa ra những tình tiết xác định người bị bắt, NBTG, bị can, bị cáo, người bị kết án vô tội, những tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với họ và giúp đỡ họ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đặc điểm này xác định nhiệm vụ, mục đích tham gia tố tụng của NBC đối với đối tượng bào chữa. Theo chúng tôi, nên mở rộng phạm vi đối tượng bào chữa không chỉ bao gồm NBTG, bị can, bị cáo như trong qui định của BLTTHS hiện hành mà bao gồm cả người bị bắt cho
phù hợp với qui định của Hiến pháp năm 2013 và người bị kết án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ trong giai đoạn thi hành án.
Thứ ba, NBC là người được các CQTHTT chứng nhận thông qua việc cấp Giấy chứng nhận NBC. Đặc điểm này được qui định tại khoản 4 Điều 56 BLTTHS năm 2003.
Thứ tư, NBC là người đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật qui định. Bởi không phải bất cứ ai cũng có thể tham gia tố tụng với tư cách là NBC. Theo qui định của pháp luật thì các điều kiện đó là:
- Phải được NBTG, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ, những người khác được họ ủy quyền mời [43, khoản 1 Điều 57]; [32, điểm 2 Mục II]; được CQTHTT yêu cầu Đoàn LS phân công Văn phòng LS cử NBC cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình trong trường hợp bắt buộc phải có NBC nhưng NBTG, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời NBC [43, khoản 2, khoản 3 Điều 57]; hoặc do Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý hoặc Luật sư – Cộng tác viên tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý là NBTG, bị can, bị cáo [46, Điều 39];
- Phải không thuộc vào một trong những trường hợp không được bào chữa theo qui định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003;
- Phải đáp ứng điều kiện do các văn bản pháp luật khác qui định. Ví dụ: đối với NBC là LS thì phải đáp ứng các điều kiện do Luật LS và các văn bản hướng dẫn; đối với NBC là Trợ giúp viên pháp lý thì phải đáp ứng các điều kiện do Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn,…
Như vậy, trên cơ sở phân tích các đặc điểm về NBC và sự tiếp thu những điểm hợp lý, khắc phục những hạn chế trong các khái niệm NBC nói trên, dưới góc độ khoa học Luật TTHS, chúng ta có thể rút ra khái niệm về NBC trong Luật TTHS như sau: “NBC trong Luật TTHS là người đáp ứng