Nội Dung Điều Chỉnh Pháp Luật Về Cấp Dưỡng Sau Ly Hôn

và gia đình của Anh thì việc cấp dưỡng cho trẻ em luôn là vấn đề trên hết. Cấp dưỡng cho trẻ em được quy định ngay cả khi trẻ em còn chung sống với cha mẹ. Khi cuộc sống vợ chồng có sự thay đổi như ly hôn, đứa trẻ buộc phải sống chung với cha hoặc mẹ thì pháp luật quy định cấp dưỡng cho trẻ để đảm bảo được nhu cầu cơ bản. Cấp dưỡng cho vợ và chồng sau ly hôn cũng là một vấn đề được pháp luật quan tâm và cũng là vấn đề gây tranh cãi. Một mặt, sự cấp dưỡng sau ly hôn nhằm làm cho cuộc sống của vợ hoặc chồng ổn định nhưng mặt khác vấn đề cấp dưỡng lại là việc khó khăn đối với bên cấp dưỡng vì họ có thể sẽ không đảm bảo được cuộc sống hiện tại. Còn người được cấp dưỡng cũng sẽ khó trở lại mức sống như lúc ban đầu. Trong hệ thống pháp luật nước này thì quyền lợi của người phụ nữ được quan tâm hơn. Đây là những điểm nổi bật trong Luật Hôn nhân và gia đình nước Anh, làm nổi bật quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em. Nhìn chung, hệ thống pháp luật của nước Anh so với hệ thống pháp luật Việt Nam về chế định cấp dưỡng có những điểm khác nhau. Song chế định cấp dưỡng ở hai hệ thống pháp luật đều có ưu và nhược điểm riêng phù hợp với tình hình kinh tế xã hội cũng như tính truyền thống trong đời sống hôn nhân của công dân ở mỗi nước [11, tr.19].

1.3.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về cấp dưỡng sau ly hôn

- Trước hết là xác định nhóm các chủ thể có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng

Nghĩa vụ cấp dưỡng sau ly hôn chỉ được đặt ra đối với nhóm quan hệ cha, mẹ, con và quan hệ vợ chồng, không đặt ra đối với nhóm quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình: quan hệ giữa ông, bà đối với cháu, quan hệ giữa cô, dì, chú bác đối với cháu bởi đó là những chủ thể không trực tiếp tham gia và bị ảnh hưởng tới quyền và lợi ích khi ly hôn.

Sau ly hôn, quan hệ cấp dưỡng chủ yếu được xác định là trách nhiệm cha mẹ, người không trực tiếp nuôi dưỡng phải cấp dưỡng cho con. Việc cấp dưỡng giữa vợ, chồng chỉ đặt ra trong những trường hợp một trong hai người

không có điều kiện để tự nuôi mình do không còn đủ sức lao động hoặc thu nhập quá thấp, không đủ chi phí cho cuộc sống của mình và bên kia có khả năng cấp dưỡng. Ngoài hai nhóm chủ thể có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng là cha mẹ - con và vợ - chồng, nếu trong gia đình trước đó có những người cùng chung sống, đang được vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng nuôi dưỡng thì việc xem xét khả năng thực hiện việc cấp dưỡng cho người đó cũng là một trong những nội dung của pháp luật cần dự liệu quy định.

- Xác định mức cấp dưỡng, thời hạn cấp dưỡng, chấm dứt cấp dưỡng, phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

- Xác định trường hợp thay đổi yêu cầu cấp dưỡng sau ly hôn: Thay đổi mức cấp dưỡng do có sự thay đổi về điều kiện của hai bên; do vợ chồng sau khi ly hôn một thời gian mới phát sinh điều kiện và nhu cầu cấp dưỡng.

1.4. Lược sử quy định pháp luật về vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn

1.4.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

Cho đến giữa thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một nước phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị của nhà nước phong kiến Việt Nam ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc và được thể hiện rõ nét qua hai Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta và bắt đầu đặt nền móng cho sự đô hộ bằng việc ban hành các bộ luật như: Tập Dân luật Giản yếu năm 1883 áp dụng ở Nam Kỳ, Dân luật Bắc kỳ năm 1931 áp dụng ở Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ năm 1936 áp dụng ở Trung kỳ. Như vậy, có thể chia pháp luật hôn nhân và gia đình trước Cách mạng tháng Tám ra thành hai thời kỳ:

- Thời kỳ phong kiến:

Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay - 4

Dưới triều Lê, Bộ luật Hồng Đức được coi như là một thành tựu to lớn trong lịch sử lập pháp Việt Nam, các quan hệ hôn nhân và gia đình được thiết

lập trên nguyên tắc: Bảo đảm tôn ti, trật tự, đẳng cấp trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, trọng nam khinh nữ, xác lập tối cao quyền của người gia trưởng. Đến triều Nguyễn, do ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo nên Bộ luật Gia Long ra đời được coi là sự sao chép nguyên bản của bộ luật nhà Thanh, các quan hệ hôn nhân và gia đình xây dựng theo mô hình gia đình phụ quyền Trung Quốc. Theo đó, vai trò của người đàn ông trong gia đình được tôn vinh, hạ thấp vai trò và vị trí của người phụ nữ, người phụ nữ phải sống theo thuyết “tam tòng tứ đức”. Chế độ đa thê và những quy định nghiêm khắc về ly hôn đã bóp méo bản chất của một cuộc hôn nhân chân, khiến nó trở thành thứ xiềng xích trói buộc người phụ nữ trong những nghi lễ bất bình đẳng nên quyền tự do ly hôn của người phụ nữ hầu như không có. Nhưng pháp luật lại trao cho người đàn ông được quyền ly hôn khi vợ phạm vào “nghĩa tuyệt” và chỉ khi thuộc trường hợp “tam bất khứ” thì quyền ly hôn người vợ của người chồng mới bị hạn chế như: vợ đã để tang nhà chồng ba năm, trước khi cưới nghèo sau giàu… Như vậy, những quy định đó không nói lên bản chất thật sự của ly hôn mà nó chỉ là một thứ công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.

Trong thời kỳ này quy định về cấp dưỡng nói chung được pháp luật quy định chặt chẽ để đảm bảo nề nếp, tôn ti trật tự trong gia đình phong kiến. Có quy định chặt chẽ về nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái và con cái đối với ông bà cha mẹ nhưng do tư tưởng trọng nam khinh nữ, chỉ người chồng được quyền ly hôn vợ nên quan hệ cấp dưỡng sau ly hôn hầu như không được quy định.

- Thời kỳ Pháp thuộc:

Thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã lần lượt ban hành các văn bản pháp luật mới như: Tập Dân luật Giản yếu năm 1883 áp dụng ở Nam Kỳ, Dân luật Bắc kỳ năm 1931 áp dụng ở Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ

năm 1936 áp dụng ở Trung kỳ. Trong giai đoạn này, pháp luật nói chung và pháp luật hôn nhân và gia đình nói riêng có nhiều thay đổi nhưng vẫn duy trì sự bất bình đẳng nam nữ, thừa nhận quyền gia trưởng làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của gia đình và xã hội. Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này đã bước đầu quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn tại Dân luật Bắc kỳ, Điều 142, 143 Dân luật Trung kỳ: “án xử ly hôn sẽ xử cả về tiền cấp dưỡng cho người vợ về sự trông coi con cái và về quyền lợi tài sản của người vợ” [7] và việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sẽ chấm dứt khi người vợ tái giá hoặc ăn ở tư tình với người khác hoặc vô hạnh. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con khi cha mẹ ly hôn được pháp luật ghi nhận nhưng vấn đề nuôi nấng con cái được giao cho người cha trừ trường hợp vì lợi ích của đứa trẻ ấy mà Tòa án giao cho người mẹ thì người cha có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con. Như vậy, chế định cấp dưỡng sau ly hôn thời kỳ này đã có sự tiến bộ quan trọng, bước đầu ghi nhận việc đảm bảo quyền lợi của người vợ và các con khi ly hôn. Mặc dù chưa thật rõ ràng, công bằng và bình đẳng nhưng có thể coi các quy định này là dấu ấn tiến bộ trong pháp luật hôn nhân và gia đình, là nền tảng cho các đạo luật hôn nhân và gia đình về sau này ghi nhận, xây dựng và phát triển thêm góp phần đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em khi cha mẹ ly hôn.

1.4.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó có pháp luật về hôn nhân và gia đình. Chế định về cấp dưỡng sau ly hôn từ Cách mạng tháng Tám đến nay được chia làm 3 giai đoạn tương ứng với sự phát triển của Luật Hôn nhân và gia đình.

- Từ năm 1945 đến năm 1954

Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam, nữ về mọi mặt tạo cơ sở pháp lý để ban hành các Sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, từng bước xóa bỏ những quy định lạc hậu của chế độ cũ. Sự ra đời của Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 và Sắc lệnh số 159 ngày 17/11/1950 đã đánh dấu bước khởi đầu của pháp luật về hôn nhân và gia đình trong chế độ mới.

Sắc lệnh số 97/SL gồm có 15 điều, trong đó có 8 điều quy định về hôn nhân và gia đình, thừa nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình, xóa bỏ tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, được quy định tại Điều 4, 5, 6 của Sắc lệnh. Đây là điểm tiến bộ trong pháp luật hôn nhân gia đình trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, Sắc lệnh số 97/SL chỉ dừng lại ở việc ghi nhận sự bình đẳng trong quan hệ vợ chồng mà chưa đề cập đến vấn đề ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn trong đó có vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn. Những hạn chế này đã được khắc phục trong Sắc lệnh số 159/SL với những quy định thừa nhận nguyên tắc tự do hôn nhân cùng với việc quyền lợi của người phụ nữ có thai và thai nhi, con chưa thành niên khi ly hôn. Điều 6 - Sắc lệnh số 159 quy định: “Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng; hai vợ chồng đã ly hôn phải cùng chịu phí tổn về việc nuôi dạy con, mỗi người tùy theo khả năng của mình” [5, Điều 6]. Như vậy, pháp luật về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn trong giai đoạn này đã phần nào xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu, giải phóng người phụ nữ khỏi sự ràng buộc khắt khe, không tôn trọng quyền lợi chính đáng của họ, quyền lợi của người phụ nữ và con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn được đảm bảo. Tuy nhiên chưa có quy định việc bảo

vệ quyền lợi của con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, đây là một điểm hạn chế của pháp luật thời kỳ này.

- Từ năm 1954 đến năm 1975

Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi năm 1954, tuy nhiên đất nước ta vẫn tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt: miền Bắc được giải phóng bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Ở miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL đã hoàn thành sứ mệnh của mình tuy nhiên vẫn không đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Vì vậy, “việc ban hành một đạo luật mới về hôn nhân và gia đình đã trở thành đòi hỏi cấp bách của toàn xã hội. Đó là tất yếu khách quan thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta” – Công báo số 1 năm 1960.

Hiến pháp năm 1959 ra đời, ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình tạo cơ sở pháp lý cho việc ban hành một đạo luật mới về hôn nhân gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 dành một chương riêng để quy định về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn với những quy định khác hẳn với pháp luật trước kia.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con sau ly hôn tại Điều 31, 32, 33 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959: vợ chồng khi ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ và quyền lợi đối với con chung: việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên phải căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con hay việc đóng góp phí tổn nuôi con…

Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng thì pháp luật ghi nhận nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn “nếu một bên gặp khó khăn, túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng tùy theo khả năng của minh” [17, Điều 30].

Như vậy, so với Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL thì những quy định này của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã đầy đủ và cụ thể hơn, thể hiện sự tiến bộ rõ rệt nhưng vẫn còn mang tính khái quát, chưa quy định cụ thể việc bảo vệ quyền lợi của con đã thành niên không có khả năng lao động. Có thể nói đây là bước phát triển của pháp luật hôn nhân và gia đình, là cơ sở để từng bước xây dựng và phát triển ngành luật hôn nhân và gia đình trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta.

Ở miền Nam, sau năm 1954 đế quốc Mỹ thay chân Pháp nhảy vào xâm lược nước ta, tiến hành chính sách thực dân kiểu mới. Chế độ hôn nhân và gia đình được áp dụng ở miền Nam trong giai đoạn này thể hiện qua ba văn bản: Luật Gia đình (Luật số 1/59), Sắc luật số 15/64, Bộ luật dân sự Sài Gòn năm 1972. Trong đó, việc giải quyết hậu quả của ly hôn chủ yếu dựa trên yếu tố lỗi của các bên vợ chồng như người có lỗi phải cấp dưỡng cho người kia hay người không có lỗi đương nhiên được nuôi con dưới 16 tuổi…

Dưới thời Ngô Đình Diệm, Luật số 1/59 có những quy định về quyền bình đẳng của người phụ nữ, người vợ trong gia đình, bãi bỏ chế độ đa thê những đạo luật này chỉ quy định về ly thân còn vấn đề ly hôn thì quy định tại Điều 55 như sau: “Cấm chỉ vợ chồng ruồng bỏ nhau và sự ly hôn”, trừ trường hợp do Tổng thống quyết định. Do đó không đặt ra vấn đề hậu quả của ly hôn nói chung và vấn đề cấp dưỡng sau ly hôn nói riêng.

Sau khi chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Luật số 1/59 được thay thế bằng Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/2964. Sắc luật số 15/64 có quy định về vấn đề ly hôn giữa vợ và chồng cũng như giải quyết ly hôn và hậu quả của nó. Theo quy định của Sắc luật số 15/64, quan hệ vợ chồng chấm dứt bằng ly hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn được đặt ra nhưng người có có lỗi phải cấp dưỡng cho người hôn phối không có lỗi, hay việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con cũng căn cứ trên cơ sở lỗi

của hai vợ chồng nên người không có lõi sẽ đương nhiên được quyền nuôi con dưới 16 tuổi, quyền thăm nom, cấp dưỡng cho con thuộc về người kia. Nhìn chung, Sắc luật số 15/64 đã xóa bỏ những quy định không hợp lý của Luật số 1/59 những cũng chưa quy định một cách rõ ràng việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên hôn phối và của con cái.

Ngay sau khi lên cầm quyền, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã cho soạn thảo, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật sao cho phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội nhằm phục vụ cho sự cầm quyền của mình. Bộ Dân luật năm 1972 ra đời thay thế Sắc luật số 15/64. Bộ Dân luật năm 1972 coi ly hôn là một chế định do dân luật điều chỉnh nhưng về cơ bản dựa trên các quy định của Sắc luật 15/64. Theo đó, vấn đề cấp dưỡng được đặt ra nhưng có sự phân biệt giữa tiền cấp dưỡng mà người có lỗi phải trả cho người vô tội với tiền cấp dưỡng được ấn định trong thời gian làm thủ tục ly hôn. Bộ Dân luật năm 1972 quy định: “Tòa án có thể buộc người hôn phối có lỗi trong việc ly hôn phải cấp dưỡng cho người kia tùy theo tư lực của mình …” [1, Điều 197].

Tựu chung lại, pháp luật hôn nhân và gia đình áp dụng ở miền Nam thời kỳ này ra đời trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, các phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại, và đó là công cụ để bảo vệ của chính quyền phản động tay sai. Vì vậy, các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình do chính quyền ngụy Sài Gòn ban hành thời kỳ này đều bảo vệ quyền lợi của người gia trưởng, thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng, có sự phân biệt giữa các con nhằm bảo vệ nhà nước phản động mị dân đi ngược lại với lợi ích của nhân dân ta.

1.4.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay

Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước giành độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/10/2023