viên khác trong gia đình còn hay hết, để từ đó vận dụng đường lối giải quyết đúng đắn, “thấu tình đạt lý”.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Luật HN & GĐ ra đời cùng với chế định ly hôn đã góp phần đảm bảo thực hiện hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, đảm bảo cho việc giải quyết ly hôn được chính xác, kịp thời. Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật HN & GĐ. Tuy nhiên số lượng án kiện ly hôn ngày càng tăng và những nguyên nhân dẫn đến ly hôn ngày càng phức tạp, thực tế xét xử cho thấy, Toà án gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc do pháp luật qui định chưa đầy đủ, kịp thời, cụ thể, do vậy quyền lợi của các bên đương sự chưa được bảo đảm đặc biệt là quyền lợi của bà mẹ và trẻ em. Các qui định tại chương X Luật HN & GĐ năm 2000 ra đời trên cơ sở kế thừa, cụ thể hoá và phát triển các qui định có liên quan của Luật HN & GĐ năm 1986, đồng thời bổ sung thêm một số quy định mới nhằm giúp các Toà án có thêm căn cứ pháp lý, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong hoạt động xét xử của Toà án. Trong cơ chế thị trường, những điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội biến đổi ở nước ta hiện nay, có tác động rất lớn đến quan hệ HN & GĐ nên vấn đề đặt ra là Nhà nước luôn phải hoàn thiện các quy định về pháp luật HN & GĐ sao cho phù hợp tình hình đảm bảo khả năng thực thi trên thực tế. Nghị quyết số 02/2000/NQ – HĐTP ngày 23/12/2000 của HĐTP TANDTC, hướng dẫn áp dụng một số quy định về Luật HN & GĐ năm 2000, đặc biệt đã quy định cụ thể hơn căn cứ ly hôn đã đáp ứng rất kịp thời trong việc giải quyết về ly hôn. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau đây nhằm hoàn thiện pháp luật HN & GĐ cũng như là giải pháp nhằm hạn chế ly hôn ở nước ta hiện nay.
3.2.1. Cần quy định chế định ly thân
Luật HN & GĐ năm 2000 không quy định về chế định ly thân. Tuy nhiên, chúng ta đang phải thừa nhận một thực trạng là trong xã hội ta hiện
nay, hiện tượng ly thân ngày càng nhiều, và các hậu quả pháp lý phát sinh trong thời gian vợ chồng sống ly thân cũng là vấn đề cần được quan tâm.
Thực ra, có thể nói, ly thân là tiền ly hôn, có thể phát triển theo hướng tan vỡ gia đình sau một thời gian vợ chồng sống ly thân hoặc là theo chiều hướng đoàn tụ gia đình. Nếu ly thân phát triển theo hướng dẫn đến ly hôn, chấm dứt hôn nhân thì thời gian vợ chồng sống ly thân cũng là một căn cứ pháp luật nội dung để Toà án quyết định cho ly hôn. Việc sống ly thân đã kéo theo hậu quả là quyền lợi hợp pháp của vợ chồng, con cái không được bảo đảm, hiện tượng vi phạm chế độ một vợ, một chồng do chung sống với người khác sau khi ly thân và sự ra đời của những đứa trẻ ngoài giá thú đã và đang xảy ra trên thực tế. Trong thời gian sống ly thân, người vợ, người chồng đã tạo lập được một khối tài sản hoặc xác lập một nghĩa vụ dân sự như vay nợ thì khối tài sản do vợ chồng tạo lập được hay khoản nợ do một trong hai bên xác lập có được xác định là tài sản riêng, nợ riêng hay không (vì trong thời gian ly thân, quan hệ vợ chồng vẫn tồn tại về mặt pháp lý). Để giải quyết vấn đề trên, Luật HN & GĐ nên có những quy định cụ thể về ly thân. Theo chúng tôi, thực tiễn cuộc sống đòi hỏi pháp luật điều chỉnh thì pháp luật phải quy định giải pháp phù hợp, không nên để tình trạng ly thân “tự điều chỉnh” như thời gian qua và hiện nay. Đối với chế định ly thân pháp luật cần điều chỉnh những vấn đề như: căn cứ ly thân, cách tính thời gian ly thân, thủ tục ly thân, hậu quả pháp lý của việc ly thân và chấm dứt ly thân.
3.2.2. Cần quy định trình tự và thủ tục cho công tác hoà giải
Điều 86 Luật HN & GĐ năm 2000 quy định: “Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hoà giải cơ sở khi vợ chồng có yêu cầu ly hôn, việc hoà giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hoà giải cơ sở”. Trừ một số trường hợp không hoà giải ở cơ sở khi có đơn yêu cầu ly hôn như: một bên bị Toà án tuyên bố mất tích, một bên bị kết án về tội đánh đập, hành hạ ngược đãi nghiêm trọng đối với bên có đơn yêu cầu. Còn hầu hết các trường hợp cần
đến sự hoà giải. Có thể nói hoà giải việc ly hôn của vợ chồng ở cơ sở có vai trò, tác dụng quan trọng trong việc đoàn tụ gia đình, củng cố gia đình vững chắc vì tổ hoà giải không phải là tổ chức chính quyền mà là tổ chức quần chúng của nhân dân, do dân cử ra và được thành lập theo đơn vị xã, phường, tổ dân phố, cụm dân cư… có số lượng thành viên rất phong phú về giới tính, cơ cấu xã hội. Đại diện tổ dân phố, chi bộ, hội phụ nữ… Do vậy, việc điều tra, tìm hiểu những mâu thuẫn vợ chồng và đánh giá về hiện trạng hôn nhân mang tính khách quan hơn, nắm bắt được bản chất của vấn đề, kịp thời có cách thức hoà giải phù hợp. Hoà giải kéo vợ chồng từ chỗ nhìn nhận sai lệch đi đến thông cảm, bỏ qua cho nhau, tha thứ để trở về đoàn tụ với gia đình. Hoà giải cơ sở đã giúp cho rất nhiều cặp vợ chồng muốn ly hôn quay trở lại đoàn tụ mà không phải gõ cửa Toà án với những thủ tục chặt chẽ, phức tạp. Có thể nói hoà giải cơ sở là một biện pháp rất cần thiết do vậy pháp luật cần phải có những quy định cụ thể về công tác hoà giải ở cơ sở về trách nhiệm của cán bộ làm công tác hoà giải để phát huy cao hơn nữa vai trò của hoạt động hoà giải cơ sở. Đây cũng là một truyền thống tốt đẹp của xã hội ta trong bao năm qua, nhưng Luật HN & GĐ năm 2000 chỉ khuyến khích hoà giải ở cơ sở là không phát huy hết được tác dụng của hoà giải ở cơ sở. Theo chúng tôi, cần nghiên cứu, sửa đổi Điều 86 của Luật HN & GĐ năm 2000 theo hướng vừa khuyến khích, vừa bắt buộc hoà giải việc ly hôn của vợ chồng ở cơ sở. Chúng ta có thể khuyến khích hoà giải đoàn tụ trong trường hơp thuận tình ly hôn còn trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên thì nên bắt buộc phải qua hoà giải ở cơ sở trước khi khởi kiện ra Toà án cũng như cần quy định trình tự tiến hành hoà giải cơ sở, để thủ tục này phát huy tác dụng thực sự của nó trên thực tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Ly Hôn Và Nguyên Nhân Ly Hôn Ở Nước Ta Hiện Nay
- Căn cứ ly hôn và các trường hợp ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 - 9
- Những Vướng Mắc Khi Áp Dụng Căn Cứ Ly Hôn Và Các Trường Hợp Ly Hôn Trong Công Tác Xét Xử Của Toà Án
- Căn cứ ly hôn và các trường hợp ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 - 12
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Khác với hoà giải ở cơ sở, hoà giải ở Toà án là một thủ tục bắt buộc giải quyết tranh chấp nói chung và ly hôn nói riêng. Điều 88 Luật HN & GĐ năm 2000 quy định: “Khi có yêu cầu xin ly hôn, thì vợ chồng phải trải qua
bước hoà giải ở Toà án, đây là thủ tục bắt buộc”. Hoà giải ở Toà án người thứ ba làm trung gian hoà giải giúp các bên đạt được sự thoả thuận, chấm dứt các tranh chấp bất đồng là Thẩm phán - người chịu trách nhiệm trực tiếp giải quyết vụ án. Nếu hoà giải thành sẽ giảm bớt công sức, tiền bạc của đương sự, của Nhà nước đảm bảo sự đoàn kết nhất trí của vợ chồng, nâng cao hiểu biết pháp luật. Ngay cả khi hoà giải không thành thì cũng là một lần Toà án nắm vững nội dung vụ án, phục vụ cho quá trình xét xử sau này. Các án kiện về ly hôn rất phức tạp, nó đòi hỏi người Thẩm phán phải nắm vững pháp luật thật nhuần nhuyễn phải có kiến thức xã hội phong phú, sâu sắc, có phương pháp hoà giải tốt và một nội dung quan trọng nữa là cái tâm của người Thẩm phán. Để thu được kết quả cao nhất trước khi hoà giải, Toà án phải tiến hành điều tra khi tìm được đúng thực chất của vấn đề thì sẽ tìm được hướng hoà giải thành công từ đó việc xét xử của Toà án sẽ giảm dần, hạn chế được số vụ án ly hôn. Do đó, luật cũng cần phải quy định rõ hơn nữa về thủ tục hoà giải ở Toà án về cách thức hoà giải, số lần tiến hành hoà giải để nó thực sự phát huy hiệu quả.
3.2.3. Cần thành lập Toà chuyên trách về HN & GĐ
Việc xét xử các tranh chấp về HN & GĐ ngày càng nhiều và do tính chất phức tạp của công việc nên không tránh khỏi tình trạng tồn đọng án. Các Toà chuyên trong lĩnh vực lao động, kinh tế… đã được thành lập để đáp ứng yêu cầu công tác xét xử. Theo chúng tôi, cần thành lập Toà HN & GĐ để việc giải quyết các án kiện về HN & GĐ đạt được hiệu quả giúp cho việc xét xử được chính xác. Khi thi hành pháp luật, cán bộ Toà án là những người làm công tác xét xử ly hôn có một vai trò rất quan trọng. Họ không chỉ là những người hiểu biết pháp luật giữ cho cán cân công lý được công bằng, mà họ còn phải là những nhà tâm lý. Nếu thành lập được Toà chuyên trách về HN & GĐ sẽ có những Thẩm phán chuyên trách về HN & GĐ, khi đó họ sẽ có điều kiện để bồi dưỡng những kiến thức xã hội ngoài lĩnh vực chuyên môn của mình
giúp cho việc giải quyết những vụ án về HN & GĐ đạt hiệu quả cao. Và việc quy định thủ tục tố tụng riêng cho vụ án HN & GĐ cũng là vấn đề nên đặt ra như áp dụng cơ chế một Thẩm phán xét xử, áp dụng thủ tục xét xử rút gọn để giải quyết vụ kiện ly hôn, ví dụ như trong trường hợp thuận tình ly hôn, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi thụ lý vụ kiện ly hôn như việc Toà án ra ngay quyết định khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn việc tẩu tán tài sản hoặc chuyển dịch tài sản chung của vợ chồng theo yêu cầu của họ, giúp cho việc phân chia tài sản sau này được dễ ràng hay tăng án phí ly hôn đối với các vụ kiện mà một bên xin ly hôn để góp phần hạn chế tình trạng ly hôn giống pháp luật một số nước như Mỹ, CHLB Đức.
3.2.4. Cần nâng cao hiệu quả xét xử của Toà án đối với các vụ án ly hôn:
Xây dựng được một văn bản pháp luật tốt chưa đủ mà cần phải áp dụng đúng pháp luật. Do đó, cần thiết có những cán bộ xét xử có trình độ chuyên môn cao. Biện pháp này thực chất là hạn chế việc giải quyết các vụ án ly hôn không đúng pháp luật. Để đảm bảo nâng cao trình độ xét xử, điều trước tiên phải chú trọng đến chất lượng Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử. Các án kiện về ly hôn rất phức tạp, nó đòi hỏi Thẩm phán - người trực tiếp điều khiển buổi xét xử phải là người có trình độ chuyên môn cao, có kiến thức pháp luật vững chắc. Đối với vụ án ly hôn, Thẩm phán phải sử dụng các kỹ năng nhất định khi tiến hành xét xử. Việc xác định căn cứ ly hôn là việc quan trọng, người Thẩm phán phải có cái nhìn chính xác để nắm vững nội dung vụ án phục vụ cho việc xét xử. Nhiều sự việc về HN & GĐ không dễ phơi bầy ra trước phiên toà, sự khéo léo tinh tế của người Thẩm phán khi tiếp xúc với đương sự là một điều cần thiết, để tìm ra được tính chất của vụ án, loại bỏ ly hôn giả tạo.
Nhiều người cho rằng quy định căn cứ ly hôn như hiện nay rất khó áp dụng trên thực tế. Theo chúng tôi, không phải nó khó áp dụng vì căn cứ chung chung mà cái chính là việc áp dụng căn cứ ly hôn thế nào cho đúng với từng
trường hợp cụ thể. Hiểu và đánh giá như thế nào là quan hệ vợ chồng đó đã ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” để Toà án xét xử cho ly hôn, điều này phụ thuộc nhiều vào năng lực, trách nhiệm của cán bộ xét xử. Bằng niềm tin nội tâm của người Thẩm phán qua các thủ tục điều tra hoà giải mà nắm được thực trạng đời sống vợ chồng như thế nào, mâu thuẫn đã sâu sắc chưa, tình cảm yêu thương vợ chồng còn hay hết, mục đích cuộc hôn nhân nhằm xây dựng những gia đình - tế bào tốt đẹp cho xã hội có đạt được hay không. Do đó thủ tục điều tra hoà giải có tầm quan trọng đặc biệt đối với các án kiện ly hôn, qua đó để Toà án nắm bắt được thực trạng đời sống tình cảm, hoàn cảnh của vợ chồng như thế nào để có đường lối giải quyết đúng đắn.
3.2.5. Cần quy định người có lỗi gây nên sự đổ vỡ của quan hệ hôn nhân phải gánh chịu trách nhiệm
Khi giải quyết án kiện về HN & GĐ thì cơ quan có thẩm quyền nên xét bản chất vụ việc để giải quyết vụ án cho chính xác, không nên quy định căn cứ ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ hoặc chồng nhưng một thực tế cho thấy rằng nguyên nhân dẫn đến ly hôn thường bắt nguồn từ lỗi của một bên, trong khi Luật HN & GĐ Việt Nam lại không xem xét lỗi của vợ chồng khi ly hôn. Chính vì thế mà yếu tố lỗi không phải là vấn đề quyết định để xử cho ly hôn hay không. Người có lỗi gây ra tình trạng hôn nhân tan vỡ dẫn đến ly hôn lại không phải chịu bất cứ chế tài nào của Luật HN & GĐ. Cho nên vợ chồng không thận trọng trong việc quyết định hành vi xử sự của mình dẫn đến hiện tượng ly hôn ngày càng cao. Trong bối cảnh hiện nay nên chăng cần quy định người có lỗi trong việc dẫn đến ly hôn, nhất là trong trường hợp nghiện hút, ngoại tình, đánh đập vợ con… mà phía bên kia không có lỗi gì nghiêm trọng dẫn đến vợ chồng ly hôn phải bồi thường như trách nhiệm hình sự hay chỉ được phần tài sản ít hơn người kia mặc dù công sức đóng góp vào khối tài sản chung là như nhau.
Bên cạnh đó, để tránh tình trạng ly hôn ngày càng gia tăng do nhiều nguyên nhân, nhằm tránh sự tuỳ tiện của vợ chồng khi yêu cầu ly hôn, Luật HN & GĐ nên quy định Toà án chỉ thụ lý giải quyết ly hôn khi vợ, chồng hoặc cả yêu cầu phải có lý do chính đáng, có nguyên nhân dẫn đến xung đột khiến cho vợ chồng có yêu cầu ly hôn như ngược đãi, hoặc do một bên ngoại tình… còn tất nhiên khi giải quyết để cho ly hôn hay không Toà án vẫn phải dựa vào những căn cứ ly hôn do luật định, và khi có đơn ly hôn cũng như trong quá trình giải quyết vụ án đương sự phải chủ động điều tra, xác minh sự việc, cung cấp tài liệu chứng cứ cho Toà án, Toà án chỉ điều tra xác minh sự việc trong một số trường hợp đặc biệt và việc này chỉ áp dụng đối với các trường hợp tìm hiểu về mâu thuẫn vợ chồng, như vậy sẽ giảm gánh nặng cho Toà án giúp Toà án giải quyết những vụ án ly hôn được nhanh chóng và “thấu tình đạt lý ” hơn.
3.2.6. Cần có những quy định pháp luật cụ thể và chặt chẽ hơn để giải quyết hậu quả của ly hôn
Về giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn còn rất nhiều điều đáng bàn. Ly hôn luôn tồn tại và chúng ta phải chấp nhận đó. Cái quan trọng để khắc phục những hậu quả của ly hôn cũng như hạn chế mặt tiêu cực của nó là phải giải quyết làm sao cho tốt những vấn đề mà ly hôn để lại, đó là vấn đề chia tài sản khi ly hôn, vấn đề cấp dưỡng… đặc biệt là phải đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, những người chịu nhiều thiệt thòi nhất sau những cuộc ly hôn. Luật HN & GĐ năm 2000 chưa quy định rõ ràng việc xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ chồng, xác định khi nào được coi là cha mẹ đã cho vợ chồng quyền sử dụng đất… vì thực tế xét xử của Toà án các tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn còn gặp rất nhiều vướng mắc, án tồn đọng nhiều, tỷ lệ án ly hôn còn bị sửa cao, do đó cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề tài sản của vợ chồng để các Toà án khi xét xử được thống nhất như phải quy định về hình thức của việc thoả thuận tài
sản nào là tài sản chung, tài sản nào là tài sản riêng của vợ chồng; căn cứ pháp lý để xác định ranh giới giữa việc nhập và không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng để chia khi ly hôn… đặc biệt phải có những quy định cụ thể về vấn đề nhà ở, đất đai. Đối với vấn đề cấp dưỡng cũng cần phải chú ý hơn về mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng và có những bảo đảm để việc cấp dưỡng được thi hành trên thực tế và giữ đúng ý nghĩa của nó. Ở phần này, chúng tôi không trình bày cụ thể vì đã có rất nhiều luận văn, luận án nghiên cứu chuyên sâu về mảng này, chỉ nêu lên như một kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về HN & GĐ.
Trên đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về HN & GĐ trong việc giải quyết các vụ kiện về ly hôn. Để hạn chế tình trạng ly hôn như hiện nay, ngoài những kiến nghị trên theo chúng tôi cần phải phối hợp cả với những biện pháp mang tính xã hội như: phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng xã hội trong việc nhận thức chuẩn bị tinh thần cho cuộc sống hôn nhân hay nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với gia đình và xã hội, mở rộng hoạt động của các văn phòng tư vấn pháp luật về lĩnh vực HN & GĐ …