Ngoài ra, Điều 294 Luật Thương mại 2005 chỉ quy định chung chung sự kiện bất khả kháng là điều kiện để bên vi phạm được miễn trách nhiệm nhưng chưa nêu bật được mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm hợp đồng. Về bản chất, để có thể được miễn trách nhiệm, sự kiện bất khả kháng phải xảy ra sau khi các bên ký hợp đồng và sự kiện bất khả kháng phải là nguyên nhân dẫn đến kết quả là bên vi phạm không thể thực hiện được theo đúng cam kết. Ở đây, rõ ràng điều 294 chưa thể hiện được mối quan hệ đó.
Trong khi sự kiện bất khả kháng chưa được hiểu một cách thống nhất thì pháp luật Việt Nam còn ghi nhận về “Trở ngại khách quan”. Về Trở ngại khách quan, đây là một khái niệm độc lập hoàn toàn so với sự kiện bất khả kháng. Tại khoản 1 điều 161 Bộ luật dân sự 2005, sau khi giải thích sự kiện bất khả kháng là gì, thì “Trở ngại khách quan” được ghi nhận là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình”. Nhưng, cũng giống như sự kiện bất khả kháng, khái niệm trên cũng tạo ra sự khó hiểu cho thương nhân và dễ dẫn đến nhầm lẫn với sự kiện bất khả kháng. Tại điểm b khoản 3 điều 2 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP đã giải thích rõ hơn khi quy định:
Trở ngại khách quan là trường hợp đương sự không nhận được bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương sự đi công tác ở vùng biên giới, hải đảo mà không thể gửi đơn yêu cầu thi hành án đúng hạn; tai nạn, ốm nặng đến mức mất khả năng nhận thức, phải điều trị nội trú hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án dân sự hoặc cơ quan, cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn hoặc đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế; tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, cổ phần
hóa mà chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật [2, Điều 2, Khoản 3].
Có thể nói, Trở ngại khách quan cùng với sự kiện bất khả kháng là quy định khá tiến bộ của pháp luật Việt Nam khi tính đến cả những sự kiện nằm ngoài khái niệm sự kiện bất khả kháng làm cản trở chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ. Nhưng thật đáng tiếc, trở ngại khách quan chỉ được dùng để xác định thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự hoặc thi hành án dân sự mà không được áp dụng cùng với sự kiện bất khả kháng để dẫn đến miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Do đó mà ngoài điều 294 Luật thương mại nêu trên chỉ nhắc đến sự kiện bất khả kháng, điều 302 Bộ luật dân sự 2005 cũng chỉ quy định: trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Mặc dù thực tế, những trở ngại khách quan nêu trên hoàn toàn có thể xảy ra đối với thương nhân, theo đó thương nhân không thể thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng, ví dụ: Chủ doanh nghiệp tư nhân chết mà chưa xác định được người thừa kế..., nhưng một lần nữa phải nhấn mạnh rằng, trở ngại khách quan và sự kiện bất khả kháng là hai khái niệm khác nhau, và trở ngại khách quan không được tính đến cùng với sự kiện bất khả kháng để loại trừ trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng trong thương mại.
Để việc hoàn thiện được diễn ra một cách đồng bộ thì đương nhiên chúng ta cần phải hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố tụng và thời hiệu tố tụng giải quyết các tranh chấp thương mại nói chung và trong mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng.
Việc thiếu các luật này làm cho việc giải quyết các tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng
gặp không ít khó khăn. Việc hoàn thiện Luật tố tụng phải đảm bảo rằng Tòa án có đủ thẩm quyền để buộc các bên và nhận chứng liên quan phải trình diện trước tòa. Trong trường hợp người đó không đến thì tòa vẫn tiến hành xét xử và đưa ra quyết định và giải quyết tranh chấp thương mại một cách hiệu quả bằng những thủ tục rút gọn nhanh chóng đối với những vụ tranh chấp đã rõ ràng. Vì vậy, tác giả mạnh dạn kiến nghị cần phải khẩn trương hoàn thiện sửa đổi bổ sung bộ luật tố tụng dân sự với đầy đủ các quy định để tòa án có đủ thẩm quyền giải quyết một cách có hiệu quả các tranh chấp thương mại đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của thực tế trong mua bán hàng hóa trong nước cũng như mua bán hàng hóa quốc tế.
Bên cạnh đó, việc hoàn thiện đồng bộ các văn bản pháp luật của Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đồng thời để lĩnh vực kinh doanh mua bán hàng hóa quốc tế được thuận lợi thì chúng ta cần phải tham gia ký kết các Hiệp định thương mại đa phương hoặc song phương với các nước và sớm phê chuẩn các điều ước quốc tế có liên quan.
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Tình Huống Thực Tế Về Trường Hợp Bất Khả Kháng Trong Hđmbhhqt
- Ví Dụ Thứ Ba [25] Nguyên Đơn : Bên Mua Syri Bị Đơn : Bên Bán Ghana Diễn Biến Vụ Việc:
- Một Số Ví Dụ Về Thực Hiện Tình Huống Bất Khả Kháng Trong Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế Trong Nước
- Các trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - 12
- Các trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - 13
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
2.2.1.2. Hoàn thiện theo hướng tương thích với pháp luật quốc tế
Trong thương mại quốc tế, một khái niệm gần giống với bất khả kháng, đó là “Hoàn cảnh khó khăn” (Hardship), đây là vấn đề chưa được quy định một cách cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hoàn cảnh khó khăn được nhắc đến trong Bộ nguyên tắc trong hợp đồng thương mại quốc tế (viết tắt là PICC -Principles of International Commercial Contracts) của Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế (viết tắt theo tiếng Pháp là UNIDROIT -Insitute International pour l`Unification des Droits Privé) [28]. Đây là bộ quy tắc được áp dụng rất phổ biến trong thuơng mại quốc tế cùng với Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế (CISG). Phiên bản mới nhất là PICC 2010 đã quy định: Hoàn cảnh khó khăn được xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm xuống.
Hậu quả pháp lý do việc xuất hiện hoàn cảnh khó khăn dẫn đến việc cho phép một bên trong hợp đồng có quyền xin điều chỉnh hợp đồng, khi có những thay đổi về hoàn cảnh và môi trường kinh tế, tới mức gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến quyền lợi của một bên, làm mất đi cân bằng kinh tế của hợp đồng, làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kỳ khó khăn và tốn kém. Theo đó, các bên có thể yêu cầu tòa án điều chỉnh hoặc nếu không điều chỉnh được thì cho chấm dứt hợp đồng, nhằm tái lập sự cân bằng về lợi ích giữa các bên trong hợp đồng, theo những căn cứ, thủ tục, điều kiện chặt chẽ và hạn chế.
Về cơ bản, trường hợp bất khả kháng và hoàn cảnh khó khăn có hai sự khác nhau như sau:
Một là, bất khả kháng là sự kiện làm cho một bên không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình. Trong khi đó, hoàn cảnh khó khăn thì chỉ làm cho việc thực hiện hợp đồng trở lên khó khăn hơn do có những sự kiện diễn ra làm thay đổi về cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ của hợp đồng.
Hai là, về hậu quả, khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm được hoàn toàn miễn trách nhiệm hoặc các bên có thể thoả thuận gia hạn một khoảng thời gian hợp lý để tiếp tục thực hiện hợp đồng khi sự kiện bất khả kháng kết thúc. Do đó mà bên vi phạm hợp đồng không phải chịu bất cứ chế tài gì. Đối với hoàn cảnh khó khăn, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ của mình. Theo PICC 2010, khi gặp hoàn cảnh khó khăn thì các bên chỉ có quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng, chứ không có quyền chấm dứt hợp đồng. Hợp đồng có thể được chấm dứt trên cơ sở phán quyết của tòa án. Ngoài ra, trên cơ sở yêu cầu của các bên, tòa án có thể sửa đổi các điều khoản của hợp đồng nhằm làm cho các nghĩa vụ của hợp đồng có thể được cân bằng, tạo điều kiện cho việc tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Vì vậy, đối với các hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài, về nguyên tắc, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế có thể
được áp dụng. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra các trường hợp khó khăn nói ở trên khi thực hiện hợp đồng, các bên rất khó có thể yêu cầu Toà án, trọng tài thương mại của Việt Nam có tiến hành các thủ tục tố tụng để sửa đổi các điều khoản của hợp đồng, từ đó thiết lập một trạng thái cân bằng mới theo xu hướng có lợi cho các bên hoặc tuyên bố chấm hợp đồng. Đối với hợp đồng thương mại không có yếu tố nước ngoài thì rõ ràng phải áp dụng pháp luật Việt Nam, mà pháp luật hiện hành thì lại chưa có quy định cụ thể. Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang rơi vào chu kỳ khó khăn. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đình đốn, hàng tồn kho nhiều, nợ khó đòi có xu hướng tăng lên. Nếu pháp luật Việt Nam có cơ chế giảm hoặc giúp thương nhân gỡ bỏ trách nhiệm bằng việc quy định về hoàn cảnh khó khăn thì chắc chắn rằng, khả năng phục hồi hoạt động của các doanh nghiệp sẽ nhanh hơn và giao lưu thương mại sẽ phát triển theo xu hướng tích cực và năng động hơn rất nhiều.
2.2.1.3. Kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Điều khoản bất khả kháng là điều khoản quan trọng trong hợp đồng nói chung và trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Bởi, đây là một trường hợp của việc miễn trách nhiệm khi một bên không thực hiện hoặc vi phạm hợp đồng. Vì vậy, nó có ảnh hưởng rất to lớn đến quyền và lợi ích của cả hai chủ thể ký kết hợp đồng. Luật Thương mại Việt Nam, cũng như Bộ luật dân sự, công nhận về quyền được miễn trách nhiệm của một bên khi vi phạm hợp đồng do tình huống bất khả kháng xảy ra, tuy nhiên lại không quy định cụ thể về những trường hợp bất khả kháng. Chính vì vây, nên thực tế các doanh nghiệp gặp không ít khó khăn trong việc áp dụng. Bởi, cùng một vấn đề nhưng có quan điểm cho là bất khả kháng, có quan điểm cho là trở ngại khó khăn, quan điểm cho là tình huống bất ngờ. Vậy thì quan điểm nào đúng?
Việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của hai bên có được công bằng? Trong khi đó, đặc biệt là trong các hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố quốc tế thì các rủi ro luôn túc trực bên cạnh doanh nghiệp, nhưng trong hợp đồng giữa hai bên cũng không thể liệt kê được hết các loại rủi ro. Hơn nữa, việc liệt kê rủi ro là phương án thủ công. Vì thế, tác giả luận văn xin được đưa ra một số ý kiến cá nhân về việc bổ sung và sửa đổi pháp luật về bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như sau:
i. Kiến nghị thứ nhất
Cần sửa đổi điều 161 Bộ luật dân sự và Điều 194 Luật Thương mại theo hướng chi tiết, rõ ràng và cụ thể hóa khái niệm bất khả kháng. Định nghĩa này cần phải mang tính khái quát chung chứ không mang tính liệt kê các sự kiện. Bên cạnh đó cần có các quy định liên quan đến tình huống bất khả kháng cụ thể chi tiết và rõ ràng hơn nữa để các doanh nghiệp có thể áp dụng và đối chiếu. Đồng thời, luật chuyên ngành như Luật Thương mại, điều chỉnh các hoạt động mua bán hàng hóa cần bổ sung thêm khái niệm “hoàn cảnh khó khăn” và các quy định pháp lý liên quan đến nó để các doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng, hoặc khi xảy ra tranh chấp có thể đối chiếu trường hợp thực tế của mình để xác định cụ thể mức độ vi phạm hợp đồng và hậu quả của nó, đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
ii. Kiến nghị thứ hai
Cần phải nhấn mạnh rằng, quy định tại điều 295 Luật Thương Mại Việt Nam 2005, về nghĩa vụ thông báo của bên vi phạm hợp đồng, thực sự là một quy định có “vấn đề”, thể hiện trên các khía cạnh:
Một là, cùng trong một điều luật, nhưng tại khoản 1 thì quy định bên vi phạm phải thông báo bằng hình thức văn bản, còn khoản 2 lại không quy định hình thức thông báo là gì. Điều đó khiến chúng ta phải đặt câu hỏi, việc thông
báo theo quy định tại khoản 1 có nhất thiết phải bằng hình thức văn bản không, nếu bên vi phạm hợp đồng thông báo bằng hình thức khác (chẳng hạn như điện thoại) thì có bị coi là vi phạm nghĩa vụ thông báo do không đúng hình thức không? Và ngược lại, việc thông báo theo quy định tại khoản 2 có phải có thể được thực hiện dưới mọi hình thức không, hay cũng bắt buộc thông báo dưới hình thức văn bản như khoản 1? Từ đó có thể nói rằng, việc quy định như trên của điều luật là không rõ ràng và không thống nhất. Hơn nữa, việc bắt buộc hình thức thông báo phải bằng văn bản là không thật sự hợp lí, và gây khó khăn cho các bên. Tuy nhiên, như đã nói vấn đề của chúng ta là luật quy định như thế nào, cho nên trong trường hợp luật điều chỉnh cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là Luật Thương Mại Việt Nam 2005, thì để tránh rắc rối, bên vi phạm hợp đồng tốt nhất nên thông báo bằng hình thức văn bản cho đúng với quy định của luật, trừ khi đó là điều không thể.
Hai là, điều luật quy định rằng, bên vi phạm nghĩa vụ phải thông báo ngay cho bên kia biết. Đây thực sự là một quy định không hợp lí cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn.Vì trong rất nhiều trường hợp việc thông báo ngay là điều không thể.
Ba là, quy định “nếu bên vi phạm không thông báo hoặc không thông báo kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại”, được đặt trong khoản 2 của điều 295, ngay sau cụm từ “khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết”, và chỉ cách nhau bởi dấu “;” mà không xuống đoạn. Điều này khiến chúng ta phải hiểu, cụm từ “nếu bên vi phạm không thông báo hoặc không thông báo kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại” chỉ bổ nghĩa cho đoạn “khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết”. Đồng nghĩa với việc biến quy định tại khoản 1 điều 295: “bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp
được miễn trách nhiệm, và những hậu quả có thể xảy ra”, chỉ mang tính hình thức. Còn nếu nói cụm từ “nếu bên vi phạm không thông báo hoặc không thông báo kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại” bổ nghĩa cho cả khoản 1 điều 295 thì rõ ràng khó có thể chấp nhận cho kiểu hành văn ấy được.
Như vậy, bất khả kháng với ý nghĩa là một căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ phải bao hàm đầy đủ các thuộc tính như đã phân tích. Thiếu đi một thuộc tính nào đó trở ngại khách quan chỉ được coi là những khó khăn thông thường gặp phải trong quá trình thực hiện hợp đồng mà không phải là “bất khả kháng”.
Ngoài ra, từ những quy định pháp lí nêu trên có một điều mà chúng ta cần phải lưu ý, đó là: các quy định nêu trên chỉ hàm chứa sự kiện bất khả kháng là nguyên nhân của việc không thực hiện được nghĩa vụ mới là căn cứ miễn trách nhiệm. Điều đó có nghĩa, nếu trở ngại khách quan không ảnh hưởng gì đến việc thực hiện nghĩa vụ, nhưng lại ảnh hưởng đến hậu quả của việc thực hiện nghĩa vụ thì vẫn không được coi là bất khả kháng.Có thể nói rằng đây chính là một điểm thiếu sót của các quy định pháp lí nêu trên. Vì lẽ, trên thực tế có những trở ngại khách quan xảy ra nhưng nó không ảnh hưởng gì đến việc thực hiện nghĩa vụ của các bên, nhưng lại biến hậu quả của việc thực hiện nghĩa vụ của các bên trở nên không còn ý nghĩa, thiết nghĩa rằng trong những trường hợp này vẫn nên coi trở ngại mà các bên gặp phải là sự kiện bất khả kháng, để từ đó miễn trách nhiệm cho bên vi phạm nghĩa vụ.
iii. Kiến nghị thứ ba
Đối chiếu với các quy định về bất khả kháng trên thế giới, có thể thấy pháp luật nước ta chưa quy định về trường hợp bất khả kháng do một bên thứ ba có liên quan trực tiếp đến hợp đồng hoặc một bên của chủ thể hợp đồng gặp tình huống bất khả kháng mà hậu quả của nó gây ảnh hưởng đến nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên. Ví dụ, Công ước viên năm 1980 quy định tại