năm 2005; tác giả Nguyễn Văn Trượng -Tòa án quân sự Trung ương với bài “Về việc áp dụng một số tình tiết định khung tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự”, được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 3 tháng 02 năm 2005.
Các bài viết, công trình nghiên cứu trên đây là những tài liệu quý giá, giúp cho tác giả luận văn xây dựng và hoàn thiện các ý tưởng khoa học trong quá trình nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, vẫn chưa có tài liệu, công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu, đánh giá về mặt thực tiễn tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng để chỉ ra các nguyên nhân, những tồn tại, vướng mắc và qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện các tình tiết tăng nặng TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu về các tình tiết tăng nặng TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và áp dụng pháp luật về các tình tiết tăng nặng TNHS, phân tích, đánh giá đúng thực trạng những quy định về các tình tiết tăng nặng TNHS trong BLHS hiện hành, thực tiễn áp dụng, xác định những vướng mắc trong thực tiễn, để trên cơ sở đó, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu qủa việc áp dụng pháp luật về các tình tiết tăng nặng TNHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
+ Phân tích những vấn đề lý luận về các tình tiết tăng nặng TNHS, theo pháp luật hình sự Việt Nam như khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng TNHS.
+ Phân tích các quy định của BLHS sự về các tình tiết tăng nặng TNHS.
Có thể bạn quan tâm!
- Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng - 1
- Ý Nghĩa Của Các Tình Tiết Tăng Nặng Trách Nhiệm Hình Sự Theo Pháp Luật Hình Sự Việt Nam
- Người Nào Giết Người Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây Thì Bị Phạt Tù Từ Mười Hai Năm Đến Hai Mươi Năm, Tù Chung Thân Hoặc Tử Hình;
- Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng - 5
Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.
+ Phân tích thực trạng áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
+ Trên cơ sở phân tích những thiếu sót, bất cập và vướng mắc trong thực tiễn xét xử, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của BLHS cũng như hướng dẫn áp dụng và các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực tiễn cho thấy, khi áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS liên quan rất nhiều đến các chế định khác của luật hình sự: Hình phạt, quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ TNHS…việc đề cập đến các vấn đề trên cũng chỉ nhằm mục đích giải quyết một cách có hệ thống và làm rò hơn vấn đề của quy định về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS. Do vậy, luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng TNHS, thực tiễn áp dụng quy định về các tình tiết tăng nặng TNHS trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự. Trong quá trình nghiên cứu tác giả có đề cập đến sự hình thành và phát triển của quy định về các tình tiết tăng nặng TNHS nhưng chỉ để làm sáng tỏ vấn đề chứ không đi sâu các quy định đó, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quy định này từ khi có BLHS năm 1985 và đặc biệt là BLHS năm 1999. Bên cạnh đó, luận văn cũng tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về các tình tiết tăng nặng TNHS dưới góc độ luật hình sự của TAND quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trong quá trình thực hiện luận văn tác giả đã bám sát lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự, cải cách tư pháp, về chính sách đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể để làm rò những nội dung cần nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Việc nghiên cứu thành công luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo pháp chế XHCN. Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập trong các trường đại học, các khóa đào tạo pháp luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những tình tiết tăng nặng TNHS tác giả hy vọng sẽ góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử các vụ án hình sự ở TAND quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng và góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Đồng thời, luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo của những người làm công tác thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quyết định hình phạt nói chung và quyết định các tình tiết tăng nặng TNHS của BLHS nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ cấu thành ba chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật hình sự về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự và các giải pháp khác nâng cao hiệu quả của các quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Để làm rò khái niệm các tình tiết tăng nặng TNHS thì phải nói đến chính sách hình sự. Chính sách hình sự bao hàm nhiều nội dung, một trong các nội dung đó là chính sách về tội phạm, với tính cách là một hiện tượng xã hội. Tội phạm xảy ra xâm phạm đến các quan hệ xã hội khác nhau có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau, nhưng nếu cùng xâm phạm đến một quan hệ xã hội thì mỗi hành vi phạm tội cũng có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Nếu tính chất và mức độ xâm phạm như nhau thì vẫn có yếu tố khác nhau như: nhân thân người thực hiện hành vi phạm tội, không gian, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh lúc phạm tội…Chính do sự khác nhau này mà nhà làm luật không thể quy định mức hình phạt cụ thể cho từng hành vi phạm tội mà chỉ quy định khung hình phạt cho một nhóm hành vi giống nhau cơ bản về chất nhưng khác nhau về lượng. Sự khác nhau về lượng phụ thuộc vào nhiều yếu tố và được nhà làm luật quy định trong BLHS thành hai nhóm tình tiết có nội dung, ý nghĩa trái ngược nhau.
Nếu các yếu tố nào làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng ít nghiêm trọng hơn, thì gọi là “tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”, còn những yếu tố nào làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng nghiêm trọng hơn, thì gọi là “ tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
Hiện nay, trong pháp luật hình sự thực định (BLHS năm 1999) nhà làm luật
nước ta không ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm này, đồng thời trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng còn nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ khái quát nhất, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết trong một vụ án cụ thể làm tăng mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt nghiêm khắc hơn trong một khung hình phạt, phản ánh nhu cầu cải tạo, giáo dục người phạm tội và nhân thân người phạm tội, thể hiện khả năng giáo dục cải tạo người phạm tội.
1.1.2. Đặc điểm của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Mặc dù, có ba loại tình tiết tăng nặng là tình tiết tăng nặng định tội, tình tiết tăng nặng định khung và tình tiết tăng nặng chung nhưng chúng đều có những đặc điểm chung thể hiện bản chất, ý nghĩa pháp lý của tình tiết tăng nặng TNHS. Với tính cách là tình tiết tăng nặng chung các tình tiết tăng nặng TNHS có đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, các tình tiết này làm thay đổi mức độ nguy hiểm của tội phạm theo hướng nghiêm trọng hơn tùy theo từng trường hợp cụ thể hoặc người phạm tội. Đây là những tình tiết tăng nặng chung, được áp dụng cho nhiều loại tội phạm.
Thứ hai, các tình tiết tăng nặng TNHS có sự ổn định về số lượng và nội dung. Tuy nhiên, sự ổn định này chỉ mang tính tương đối. Trong quá trình phát triển của xã hội có những tội phạm mới phát sinh, tính chất, đặc điểm của tội phạm cũng thay đổi. Có những tội thì nguy hiểm hơn, có những tội thì ít nguy hiểm đi, có những loại tội phạm lại tăng lên, xảy ra phổ biến hơn và xảo quyệt hơn. Do vậy, từ góc độ lập pháp, tình tiết tăng nặng TNHS với vai trò bảo đảm xử lý nghiêm minh tội phạm cũng phải được điều chỉnh phù hợp. Có những tình tiết mới được đưa vào, có những tình tiết phải bỏ đi, có những
tình tiết đưa từ tình tiết tăng nặng chung lên thành tình tiết tăng nặng định khung, có nhưng tình tiết tăng nặng định khung được chuyển thành tình tiết tăng nặng định tội… Ví dụ: BLHS năm 1985 chưa quy định tình tiết “Lợi dụng chức vụ cao để phạm tội”, đến kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX, ngày 10/5/1997, tình tiết này mới được quy định là tình tiết tăng nặng TNHS (điểm c khoản 1 Điều 39), nhưng khi ban hành BLHS năm 1999 thì tình tiết này được thay thế bằng tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” (điểm c khoản 1 Điều 48), hoặc trước đây hành vi gây thương tích cho trẻ em chỉ được quy định là tình tiết tăng nặng chung, nay trong BLHS năm 1999, gây thương tích cho trẻ em được quy định là tình tiết tăng nặng định khung của tội “ Cố ý gây thương tích”. Hoặc do yêu cầu đấu tranh phòng, chống HIV/AIDS nên tình tiết tăng nặng “Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội” lần đầu tiên được đưa vào BLHS và được quy định là tình tiết tăng nặng định khung ở một số tội xâm phạm tình dục như: Hiếp dâm, cưỡng dâm…Do đó, nếu chưa được bổ sung vào BLHS, thì các Tòa án nhất thiết không được tùy tiện bổ sung vào những tình tiết mà BLHS không quy định để tăng nặng TNHS đối với người phạm tội.
Thứ ba, về nguyên tắc, chỉ những tình tiết tăng nặng nào đã được quy định trong BLHS thì Tòa án mới được áp dụng là tình tiết tăng nặng TNHS để tăng hình phạt đối với người phạm tội. Xác định đúng các tình tiết tăng nặng TNHS không chỉ “là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật ” mà còn là “một trong những cơ sở áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật hình sự” [4,tr 7-8].
Khi truy tố, xét xử, chỉ những tình tiết nào được quy định trong BLHS mới được áp dụng là tình tiết tăng nặng TNHS để tăng hình phạt đối với bị cáo, không được suy diễn, coi những tình tiết ngoài BLHS là tình tiết tăng nặng TNHS. Đây cũng là đặc điểm khác biệt cơ bản của tình tiết tăng nặng
TNHS so với tình tiết giảm nhẹ TNHS bởi khoản 2 Điều 46 BLHS quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án còn có thể coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rò trong bản án”.
Đặc điểm này thể hiện các nguyên tắc pháp chế, bình đẳng, nhân đạo, bảo vệ quyền con người...“cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ của việc quyết định hình phạt công bằng” [44,tr184]. Nhiều Tòa án khi xét xử, coi những hành vi vi phạm pháp luật khác chưa cấu thành tội phạm, hoặc những trường hợp chưa đủ chứng cứ để chứng minh bị cáo phạm thêm một tội khác là tình tiết tăng nặng hình phạt khi lượng hình là không đúng, trái với nguyên tắc của Luật hình sự Việt Nam. Ví dụ: bị cáo Nguyễn Văn H bị truy tố, xét xử về tội hủy hoại rừng, có người khai H còn có hành vi cưỡng đoạt tài sản nhưng chưa đủ căn cứ để kết tội, nên HĐXX đã coi đó là yếu tố để xem xét khi lượng hình. Đây là quan điểm trái ngược hoàn toàn với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự.
Thứ tư, các tình tiết tăng nặng TNHS có nội dung khác nhau. Do đó, mức độ ý nghĩa tăng TNHS đối với người phạm tội cũng khác nhau, ví dụ: tình tiết tái phạm nguy hiểm khác tình tiết tái phạm về mức độ tăng nặng.
Trong một tình tiết, mức độ tăng TNHS cũng khác nhau nếu như nó được xem xét với hành vi phạm tội khác nhau hoặc với người phạm tội khác nhau, ví dụ: đều là phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt nhưng phạm tội do cố ý mức độ tăng nặng hơn phạm tội do vô ý.
Mỗi tình tiết tăng nặng TNHS chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với một hoặc một số hành vi phạm tội hoặc đối với một số người phạm tội chứ không thể áp dụng đối với tất cả các tội phạm hoặc đối với tất cả người phạm tội, ví dụ: tình tiết “Xâm phạm tài sản của nhà nước” chỉ áp dụng đối với những tội xâm phạm sở hữu và đó phải là tài sản của nhà nước.
Khi áp dụng các tình tiết tăng nặng đối với người phạm tội. Tòa án “phải