Trong vòng 30 ngày sau ngày thông qua Báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm. Tại cuộc họp của DSB được tổ chức, thành viên liên quan phải thông báo cho DSB về các dự định của mình đối với việc thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của DSB. Nếu không thể thực hiện được việc tuân theo ngay lập tức các khuyến nghị và phán quyết thì thành viên liên quan sẽ có một khoảng thời hạn hợp lý để thực hiện. "Thời hạn hợp lý" được quy định tại Điều 21.3 của DSU:
- Khoảng thời gian do thành viên có liên quan đưa ra, với điều kiện là thời hạn đó được DSB thông qua; hoặc, nếu không được phê duyệt như vậy, thì
- Khoảng thời gian được các bên tranh chấp thỏa thuận trong vòng 45 ngày sau ngày thông qua các khuyến nghị và phán quyết; hoặc, nếu không đạt được thỏa thuận giữa các bên, thì
- Khoảng thời gian được xác định thông qua biện pháp trọng tài bắt buộc trong vòng 90 ngày sau ngày thông qua các khuyến nghị và phán quyết. Theo việc xét xử này, thời hạn mà trọng tài phải đưa ra là khoảng thời gian hợp lý để thực hiện các khuyến nghị và phán quyết của Ban hội thẩm hay Cơ quan phúc thẩm, khoảng thời gian đó không được vượt quá 15 tháng kể từ ngày thông qua Báo cáo của Ban hội thẩm hoặc của Cơ quan phúc thẩm. Tuy nhiên, thời gian đó có thể dài hoặc ngắn hơn, tùy thuộc vào các trường hợp cụ thể.
Thời hạn từ ngày DSB thành lập Ban hội thẩm cho tới ngày quyết định thời hạn hợp lý sẽ không vượt quá 15 tháng nếu các bên tranh chấp có thỏa thuận khác (trừ khi Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm kéo dài thời hạn đưa ra báo cáo của mình theo Điều 12.9 hoặc Điều 17.5). Khi Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm kéo dài thời hạn đưa ra báo cáo của mình, thì thời gian phụ thêm sẽ được cộng vào thời hạn 15 tháng; với điều kiện là tổng số thời gian không vượt quá 18 tháng trừ khi các bên tranh chấp thỏa thuận đây là các trường hợp ngoại lệ.
DSB sẽ duy trì giám sát việc thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết đã được thông qua. Vấn đề thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết có thể được bất cứ thành viên nào đặt ra tại DSB vào bất cứ thời điểm nào theo sự quyết định của họ. Trừ khi DSB quyết định khác, vấn đề thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết sẽ được đưa vào chương trình nghị sự tại cuộc họp DSB sau 6 tháng kể từ
ngày thời hạn hợp lý nêu trên được ấn định và sẽ vẫn nằm trong chương trình nghị sự của DSB cho tới khi vấn đề được giải quyết. Ít nhất là 10 ngày trước mỗi cuộc họp DSB, thành viên liên quan sẽ cung cấp cho DSB bản báo cáo tình hình bằng
văn bản về tiến triển của việc thực hiện các khuyến nghị hoặc phán quyết này.
Khi hết thời hạn thi hành phán quyết mà bên vi phạm đã thua kiện không chịu điều hành biện pháp thương mại bị khiếu nại cho phù hợp với các nghĩa vụ theo các hiệp định, thoả thuận có liên quan của WTO, thì bên thắng kiện có thể yêu cầu bồi thường hoặc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác (thường được gọi là trả đũa). Điều 22.1 của DSU đưa ra nguyên tắc trong việc đảm bảo thi hành báo cáo của Cơ quan phúc thẩm: "Việc đền bù và tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác là những biện pháp tạm thời có hiệu lực trong trường hợp các khuyến nghị và phán quyết không được thực hiện trong thời hạn hợp lý. Tuy nhiên, việc thực hiện đầy đủ khuyến nghị để làm cho một biện pháp phù hợp với các hiệp định có liên quan thì tốt hơn các biện pháp bồi thường, tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ nào khác tốt hơn. Việc bồi thường là tự nguyện, nếu được thừa nhận, và sẽ phù hợp với các hiệp định có liên quan".
Bên khởi kiện có thể yêu cầu được bồi thường ngay sau khi thời hạn thi hành các phán quyết đã hết mà phán quyết không được thi hành. Khi được yêu cầu bồi thường, bên thua kiện phải đàm phán với bên thắng kiện về mức bồi thường (không có quy định nào hạn chế lĩnh vực có thể bồi thường, do vậy các bên hữu quan có thể thương lượng để bồi thường theo lĩnh vực hay theo các hiệp định). Nếu không thỏa thuận được biện pháp bồi thường thỏa đáng nào trong vòng 20 ngày sau ngày hết hạn thời hạn hợp lý, thì bên thắng kiện có thể yêu cầu DSB cho phép tạm hoãn thi hành việc áp dụng đối với thành viên liên quan những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan. Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi hết thời hạn thi hành phán quyết, DSB sẽ cho phép bên thắng kiện tiến hành trả đũa, trừ phi DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận bác bỏ yêu cầu trả đũa. Như vậy, biện pháp trả đũa chỉ được phép thực hiện trong trường hợp nước thành viên vi phạm đã thua kiện nhưng không thực hiện khuyến nghị, phán quyết và hai bên không thể đồng ý với
nhau về mức độ bồi thường. Mức độ của các biện pháp trả đũa phải tương đương với mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm của bên kia gây ra; nội dung của các biện pháp trả đũa không bị cấm trong các hiệp định có liên quan. Biện pháp trả đũa chỉ là biện pháp tạm thời và chỉ được áp dụng cho đến khi bên thua kiện đã loại bỏ các biện pháp trái với hiệp định của WTO, tức là cho đến khi bên thua kiện đã thi hành đầy đủ phán quyết của DSB. DSB không cho phép trả đũa nếu hiệp định có liên quan cấm việc trả đũa như vậy.
Theo Điều 22.3 của DSU, khi xem xét để tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác (biện pháp trả đũa), thì bên nguyên đơn phải áp dụng những nguyên tắc và thủ tục sau:
- Nguyên tắc cơ bản là bên nguyên đơn đầu tiên phải tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác đối với cùng (những) lĩnh vực mà Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm đã xác định là vi phạm hoặc làm vô hiệu hoặc gây phương hại;
- Nếu bên nguyên đơn cho rằng việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác là không thể thực hiện được hoặc không hiệu quả đối với cùng những lĩnh vực đó, thì bên đó có thể tạm hoãn thi hành những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ trong những lĩnh vực khác của cùng một hiệp định;
- Nếu bên nguyên đơn cho rằng tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác là không thể thực hiện được hoặc không hiệu quả đối với những lĩnh vực khác trong cùng hiệp định và những tình huống đủ nghiêm trọng, thì bên đó có thể tạm hoãn thi hành nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo một hiệp định có liên quan khác;
- Khi áp dụng những nguyên tắc trên, phải cân nhắc:
+ Thương mại trong lĩnh vực hoặc theo thỏa thuận mà Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm đã xác minh là vi phạm hoặc làm vô hiệu hoá hoặc gây phương hại, và tầm quan trọng của việc buôn bán này đối với bên nguyên đơn;
+ Những nhân tố kinh tế lớn hơn liên quan đến việc vô hiệu hóa hoặc gây phương hại và những hậu quả kinh tế lớn hơn của việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác;
+ Nếu bên nguyên đơn quyết định yêu cầu cho phép tạm hoãn những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác, thì bên đó phải tuyên bố lý do cho yêu cầu của mình. Trong khi yêu cầu được chuyển tới DSB, yêu cầu cũng có thể được chuyển tới các Hội đồng có liên quan và cả tới các cơ quan chuyên ngành có liên quan.
Trong trường hợp có sự phản đối của bên phải thi hành về mức độ của các biện pháp trả đũa, hoặc hai bên không thống nhất được thời hạn hợp lý cho việc thi hành phán quyết của DSB thì DSU cho phép thiết lập một trọng tài để xem xét về yêu cầu này. Trọng tài trong trường hợp này có thể chính là Ban hội thẩm đã xem xét vụ việc hoặc có thể là một trọng tài viên do Tổng thư ký chỉ định. Thủ tục cho việc xét xử của trọng tài được quy định tại Điều 22 và Điều 25 của DSU.
Thủ tục trọng tài theo Điều 22 của DSU được áp dụng trong trường hợp bên thua kiện không đồng ý về mức độ trả đũa mà bên thắng kiện đề nghị áp dụng. Theo Điều 22.7 của DSU, Trọng tài không phải xem xét bản chất của những nhượng bộ hoặc những nghĩa vụ khác bị tạm hoãn nhưng phải xác định liệu mức tạm hoãn có tương ứng với mức vô hiệu hóa hay gây phương hại hay không. Trọng tài cũng có thể xác định liệu đề xuất tạm hoãn những nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác có được phép hay không theo hiệp định có liên quan. Tuy nhiên, nếu vấn đề được đưa ra trọng tài bao gồm cả khiếu nại rằng những nguyên tắc và thủ tục được nêu ra tại Điều 22.3 chưa được tuân thủ, thì trọng tài viên phải xem xét khiếu nại đó. Trong trường hợp trọng tài viên xác định rằng những nguyên tắc và thủ tục đó chưa được tuân thủ thì bên nguyên đơn phải áp dụng chúng phù hợp với Điều 22.3. Các bên phải chấp nhận quyết định của trọng tài là quyết định chung thẩm, và do vậy các bên liên quan không được yêu cầu trọng tài phúc thẩm. DSB sẽ được thông báo nhanh chóng về quyết định của trọng tài và cho phép tạm hoãn nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác khi có yêu cầu phù hợp quyết định của trọng tài trừ khi DSB quyết định trên cơ sở nhất trí chung bác bỏ yêu cầu này.
Việc tạm hoãn thi hành các nhượng bộ và các nghĩa vụ khác sẽ là tạm thời và sẽ chỉ được áp dụng cho tới khi biện pháp được coi là không phù hợp với hiệp định có liên quan được loại bỏ, hoặc thành viên phải thực hiện những khuyến nghị hoặc phán quyết đưa ra giải pháp đối với việc vô hiệu hoặc làm phương hại đến lợi ích, hoặc đã đạt được một giải pháp thoả đáng cho cả hai bên. Theo Điều 21.6, DSB sẽ tiếp tục duy trì giám sát việc thực hiện những khuyến nghị hoặc phán quyết đã được thông qua, kể cả những trường hợp trong đó đã thực hiện bồi thường hoặc các trường hợp trong đó các nhượng bộ hoặc các nghĩa vụ khác đã bị tạm hoãn nhưng những khuyến nghị yêu cầu điều chỉnh một biện pháp cho phù hợp với những hiệp định có liên quan vẫn chưa được thực hiện.
Ngoài ra, DSU còn quy định việc lựa chọn thủ tục trọng tài theo Điều 25, nhưng đây là một cách thức giải quyết tranh chấp do các bên tranh chấp tự nguyện thoả thuận áp dụng thay thế cho thủ tục tố tụng của DSU để giải quyết tranh chấp. Điều 25.2 và 25.3 của DSU chỉ rõ: "Ngoại trừ trường hợp có quy định khác trong Thoả thuận này, việc sử dụng trọng tài sẽ tùy theo thỏa thuận đôi bên và hai bên sẽ đồng ý với nhau về thủ tục phải tuân thủ. Những thỏa thuận về sử dụng trọng tài sẽ được thông báo sớm cho tất cả các thành viên trước khi bắt đầu tiến trình tố tụng thực tế của trọng tài"; "Các thành viên khác có thể trở thành một bên tham gia tố tụng của trọng tài chỉ khi có sự đồng ý của các bên là những bên đã đồng ý sử dụng trọng tài. Các bên tham gia tiến trình tố tụng này phải thoả thuận với nhau tuân thủ phán quyết của trọng tài. Các phán quyết của trọng tài sẽ được thông báo cho DSB và Hội đồng hoặc ủy ban của bất cứ hiệp định nào có liên quan trong đó bất kỳ thành viên nào cũng có thể đưa thêm ý kiến có liên quan".
Tuy nhiên, WTO không có một cơ quan trọng tài hoạt động thường xuyên để giải quyết tranh chấp. Trọng tài là do các nước tranh chấp thành lập ra và sau khi giải quyết xong tranh chấp, trọng tài tự giải thể. Để đảm bảo tính khách quan, các nước tranh chấp hầu như không đưa tranh chấp ra một tổ chức trọng tài quốc tế thường trực của một nước nào.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài phải tuân thủ theo nguyên tắc và thủ tục của DSU về việc giải quyết tranh chấp. Khi đã lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp các nước phải tuân thủ tuyệt đối phán quyết của trọng tài. Các nước tranh chấp phải thông báo phán quyết của trọng tài cho DSB và cho các Hội đồng, Uỷ ban về những Hiệp định liên quan. Các quy định của DSU về việc DSB giám sát thực hiện phán quyết, về những vấn đề bồi thường và trả đũa cũng được áp dụng cho phán quyết của trọng tài, tức là việc thi hành phán quyết của trọng tài giống như việc thi hành phán quyết của DSB.
Tham vấn và hòa giải
Trong toàn bộ quá trình có thể sử dụng trung |
gian, môi giới, hoà giải |
|
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Quan Và Nguyên Tắc Giải Quyết Tranh Chấp Của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
- Các Nguyên Tắc Giải Quyết Tranh Chấp Của Wto [10], [23]
- Giai Đoạn Thi Hành Phán Quyết Và Khuyến Nghị
- Giải Quyết Tranh Chấp Của Các Nước Đang Phát Triển Theo Cơ Chế Giải Quyết Tranh Chấp Của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
- Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới - 9
- Một Số Tranh Chấp Cụ Thể Của Các Nước Đang Phát Triển Được Giải Quyết Theo Cơ Chế Của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Tổng hợp các giai đoạn và thủ tục của từng giai đoạn cho thấy quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO được mô tả theo sơ đồ sau:
60 ngày
Thành lập Ban hội thẩm
do DSB quyết định
Tham khảo chuyên gia (nếu có) |
|
Ban hội thẩm triệu tập thêm một cuộc họp (trên cơ sở yêu cầu của các bên) |
45 ngày
Điều khoản tham chiếu
Thành phần của Ban hội thẩm
Ban hội thẩm xem xét vụ việc (thường là 2 cuộc họp với các bên 1 cuộc họp với bên thứ 3)
Giai đoạn xem xét giữa kỳ
(Báo cáo giữa kỳ được chuyển cho các bên tranh chấp góp ý)
Báo cáo cuối cùng của Ban hội thẩm
được chuyển cho các bên tranh chấp
6 tháng từ khi thành lập Ban hội thẩm
Báo cáo của Ban hội thẩm
được chuyển đến DSB
3 tuần
Kháng cáo (tối đa 90 ngày)
DSB thông qua báo cáo của Ban hội
thẩm/Báo cáo của cơ quan phúc thẩm
60 ngày nếu không có kháng cáo 30 ngày (báo cáo Phúc thẩm)
Thực hiện phán quyết
Tối đa 15 tháng
(18 tháng nếu có kháng cáo)
Thủ tục trọng tài
(nếu có)
Bồi thường và trả đũa
(trường hợp không thực hiện phán quyết)
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA
CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN THEO CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
2.1. VỊ TRÍ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG WTO
Trong các văn kiện của WTO, các thành viên được hiểu gồm ba (03) nhóm nước: phát triển, đang phát triển và chậm phát triển. Khác với cách phân loại theo các tiêu chí của Liên Hợp Quốc, WTO phân loại thành viên theo phương thức mỗi thành viên tự phân loại và các thành viên khác công nhận. Đối với "các nước đang phát triển", WTO không có một định nghĩa cụ thể nào. Riêng Hiệp định về trợ cấp phân loại các thành viên thành năm (05) nhóm: 01 nhóm nước phát triển; 03 nhóm nước đang phát triển với thu nhập quốc dân hàng năm: (a) Lớn hơn 6000 đôla, (b) Từ 1000 đến 6000 đôla, (c) Dưới 1000 đôla; 01 nhóm nước chậm phát triển. WTO có thể xem xét chấp nhận cách phân loại của Ngân hàng thế giới (WB) dựa trên tiêu chí tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến trong tổng kim ngạch xuất khẩu để phân biệt ba (03) nhóm nước này như sau: các nước kém phát triển (dưới 20%), các nước đang phát triển (từ 20% - 40%) và các nước phát triển (trên 40%) [1,549].
Hệ thống thương mại thế giới do GATT và sau này là WTO điều chỉnh luôn thể hiện quá trình mâu thuẫn về lợi ích, nổi bật là giữa hai nhóm nước chính: các nước phát triển và các nước đang phát triển. Đứng từ góc độ các nước đang phát triển, chúng ta thấy rằng WTO mặc dù được cải thiện rất nhiều so với GATT, nhưng vẫn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được lợi ích của các nước đang phát triển và vẫn còn bị chi phối nặng nề bởi các nước phát triển.
WTO ra đời trên cơ sở của GATT với mục đích ban đầu là từng bước xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan cho sự lưu chuyển hàng hoá, thúc đẩy và bảo đảm cho quá trình tự do hoá thương mại thế giới. Tuy nhiên, toàn bộ quá trình tự do hoá thương mại từ GATT cho đến khi WTO ra đời đều do các nước phát triển sắp đặt vì lợi ích của họ, còn các nước đang phát triển chỉ đóng vai trò hết sức thụ động.
Vào thập niên 80, khi các biện pháp phi quan thuế ngày càng phát triển và trở thành những trở ngại chính cản trở thương mại thế giới, tại Tokyo (1973-1979), các nước phát triển đã đề xướng phải có cách hạn chế các biện pháp phi quan thuế được coi là không có tính minh bạch và bóp méo thị trường. Hàng loạt các văn bản liên quan đến hạn chế các biện pháp phi quan thuế được hình thành sau Vòng Tokyo, nhưng có rất ít các nước đang phát triển tham gia. Ngay từ giai đoạn này, các nước đang phát triển cũng nhận thấy những văn bản này không phục vụ lợi ích của họ.
Các nước đang phát triển đã thành công trong Vòng đàm phán Uruguay vì đã đưa được hai lĩnh vực nông nghiệp và dệt may (hai lĩnh vực trọng yếu của các nước đang phát triển) vào trong WTO. Tuy nhiên, kết quả mở cửa thị trường của các nước phát triển trong hai lĩnh vực này cũng rất hạn chế: thị trường nông nghiệp của các nước phát triển vẫn được bảo hộ cao do quá trình thuế hóa và việc duy trì các biện pháp trợ cấp được nguỵ trang khéo (các biện pháp trợ cấp được phép sử dụng); thị trường dệt may vẫn chịu sự chi phối của các hạn ngạch và thời gian xoá bỏ các hạn ngạch là rất dài (10 năm) với lý do ngành công nghiệp dệt may của những nước đang phát triển cần có thời gian chuyển đổi sau một thời gian dài bảo hộ.