thương mại Việt Nam" để tìm ra phương hướng và giải pháp giúp các ngân hàng nâng cao lợi nhuận trong giai đoạn hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng thương mại Việt Nam
- Đo lường sự ảnh hưởng của các nhân tố đó đến lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
- Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận và hạn chế rủi ro trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng thương mại (bao gồm các nhân tố bên trong: tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, nguồn vốn huy động, nguồn vốn cho vay, thu nhập lãi thuần, thu nhập ngoài lãi thuần; và các nhân tố bên ngoài: tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát)
Phạm vi nghiên cứu: các ngân hàng thương mại cổ phần lớn tại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2013, bao gồm 8 ngân hàng thương mại:
- Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 1
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Lợi Nhuận Của Ngân Hàng Thương Mại :
- Tổng Quan Về Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Thực Trạng Hoạt Động Kinh Doanh Của Các Ngân Hàng Thương Mại Trong Thời Gian Qua
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
- Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt nam (BIDV)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)
- Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB)
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp nghiên cứu định lượng bằng cách dùng mô hình hồi quy để phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại thông qua dữ liệu bảng (panel data). Phần mềm được sử dụng để phân tích định lượng là phần mềm Eviews 6.0.
Ý nghĩa nghiên cứu
Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động như thời gian vừa qua, lợi nhuận của các ngân hàng đã có rất nhiều biến động, một phần do tác động từ nhân tố kinh tế vĩ mô, một phần là do các vấn đề của bản thân các ngân hàng. Vì vậy, nghiên cứu sẽ giúp xác định rò ràng đâu là nhân tố tác động trực tiếp đến lợi nhuận của các ngân hàng, để từ đó, các nhà quản trị ngân hàng có thể hoạch định những chiến lược kinh doanh, cũng như các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn và nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng.
Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương :
Chương 1 : Tổng quan về các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại
Chương 2 : Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại Việt Nam
Chương 3 : Giải pháp nâng cao lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI NHUẬN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay, các Ngân hàng thương mại không ngừng phát triển, hình thành mạng lưới rộng khắp toàn cầu. Hoạt động ngân hàng ngày càng có tính hệ thống cao, được xem là một kênh chu chuyển vốn quan trọng và cung ứng dịch vụ tài chính đa dạng, phong phú, tác động đáng kể đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Hiện nay, tùy theo lịch sử hình thành của hệ thống ngân hàng có nhiều khái niệm về ngân hàng thương mại :
Theo Ngân hàng thế giới : Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu dưới dạng không kỳ hạn hoặc tiền gửi được rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm). Dưới tiêu đề các “ngân hàng” gồm có : Ngân hàng thương mại chỉ tham gia vào các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay ngắn hạn, trung dài hạn ; Ngân hàng đầu tư hoạt động buôn bán chứng khoán và bảo lãnh phát hành ; Ngân hàng nhà ở cung cấp tài chính cho lĩnh vực phát triển nhà ở và nhiều loại ngân hàng khác nữa. Tại một số nước còn có ngân hàng tổng hợp kết hợp hoạt động ngân hàng thương mại với hoạt động ngân hàng đầu tư và đôi khi thực hiện cả dịch vụ bảo hiểm.
Tại Hoa Kỳ : Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, chuyên cung cấp các dịch vụ về tài chính như nhận tiền gửi, chuyển tiền, thanh toán, cho vay, đầu tư, đổi tiền, mua bán ngoại hối và các dịch vụ khác liên quan đến tiền như bảo quản, ủy thác, làm đại lý trong nước và quốc tế.
Tại Pháp : Theo đạo luật ngân hàng Pháp năm 1941, Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay là những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử
dụng số tiền đó cho chính họ trong các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng và cung cấp dịch vụ tài chính.
Tại Việt Nam : Theo điều 4, Luật các tổ chức tín dụng, ngày 16 tháng 06 năm 2010, Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Như vậy, ngân hàng thương mại là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi dưới nhiều hình thức khác nhau và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán cho các chủ thể trong nền kinh tế, nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh tiền tệ và các hoạt động khác có liên quan, bao gồm :
Huy động vốn là hoạt động nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu…theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi cho khách hàng theo đúng thời hạn thỏa thuận.
Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một tài sản theo nguyên tắc có hoàn trả và lãi bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán, thực hiện dịch vụ thanh toán séc, ủy nhiệm chi, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản tiền gửi của khách hàng.
Các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thương mại : dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ ủy thác, dịch vụ môi giới tiền tệ, dịch vụ kinh doanh ngoại hối, các dịch vụ khác: quản lý tài sản, tư vấn tài chính…
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Ngày nay, Ngân hang thương mại đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng và trở thành một loại hình chiếm vị trí chủ yếu trong hệ thống các tổ chức tài chính trung gian. Chức năng cụ thể của ngân hàng thương mại như sau:
Chức năng trung gian tài chính
Trong chức năng này, Ngân hàng thương mại đóng vai trò là “cầu nối” giữa các chủ thế thừa vốn với các chủ thể đang thiếu vốn trong nền kinh tế. Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, Ngân hàng đã biến những nguồn vốn nhỏ lẻ, rải rác trong nền kinh tế thành nguồn vốn tín dụng đủ lớn để cho vay đáp ứng các nhu cầu vốn kinh doanh và vốn đầu tư cho các ngành kinh tế, nhu cầu vốn tiêu dùng của xã hội. Như vậy, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay. Với chức năng này, ngân hàng thương mại đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên. Cụ thể:
+ Đối với bản thân Ngân hàng thương mại: ngân hàng sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay, từ hoa hồng môi giới hoặc từ việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ đi kèm. Lợi nhuận này chính là cơ sở để Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển.
+ Đối với người gửi tiền: họ được cung cấp một kênh đầu tư an toàn, thu được lợi từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mình. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể cung cấp cho các họ các dịch vụ tiện ích khác như thanh toán không dùng tiền mặt, internet banking…
+ Đối với người đi vay: họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu, thanh toán mà không phải tốn nhiều chi phí về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp.
+ Đối với nền kinh tế: chức năng này của ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đã đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, góp phần điều tiết nguồn vốn
cho nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng thương mại đã làm tối thiểu hóa chi phí thông tin và chi phí giao dịch trong nền kinh tế, giúp quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế diễn ra liên tục.
Chức năng trung gian tài chính được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở thực hiện chức năng trung gian tài chính. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dòi các khoản thu, chi. Đó chính là tiền để khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí trung gian thanh toán. Trên cơ sở là người quản lý tiền trên tài khoản của khách hàng, Ngân hàng thương mại thực hiện các khoản thanh toán, chi trả thay cho khách hàng có nhu cầu thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng.
Với chức năng trung gian thanh toán, các Ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi như ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, séc, thẻ thanh toán… tùy theo nhu cầu khách hàng. Nhờ đó mà các chủ thể trong nền kinh tế không phải giữ tiền mặt, không phải vận chuyển tiền để thanh toán mà có thể sử dụng một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng cung cấp. Do vậy các chủ thể sẽ tiết kiệm chi phí về thời gian, tiền bạc, lại đảm bảo an toàn hơn so với thanh toán trực tiếp. Như vậy, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn, đồng thời việc thanh toán qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt lưu thông, góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, kiểm đếm, bảo quản tiền…
Đối với Ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu phí cung cấp dịch vụ. Ngoài ra, nó còn giúp ngân hàng có thể huy động được một nguồn vốn có chi phí thấp, giúp ngân hàng có thể gia tăng lợi nhuận.
Chức năng tạo tiền
Khi kết hợp chức năng trung gian tài chính và trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có thể thực hiện chức năng tạo tiền. Thông qua cho vay bằng hình thức chuyển khoản, từ một khoản tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng, hệ thống ngân hàng thương mại đã tạo ra một lượng tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng lớn gấp nhiều lần so với lượng tiền gửi ban đầu. Lượng tiền ghi sổ do ngân hàng thương mại tạo ra phụ thuộc vào vào số tiền gửi ban đầu của khách hàng, số lượng ngân hàng tham gia vào quá trình tạo tiền và tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Với chức năng này, hệ thống Ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Một khối lượng tín dụng mà Ngân hàng thương mại cho vay làm tăng khả năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng cho quá trình giao dịch trong nền kinh tế.
1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại:
Thứ nhất, điều tiết nguồn vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho nền kinh tế. Nhờ hoạt động của Ngân hàng thương mại mà nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế được tập hợp lại thành nguồn vốn lớn phục vụ cho đời sống xã hội và phát triển kinh tế. Ngân hàng thương mại trở thành kênh chu chuyển vốn quan trọng trong nền kinh tế, cung ứng vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thứ hai, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường tài chính phát triển: hoạt động của Ngân hàng thương mại vừa mang tính cạnh tranh nhưng cũng vừa có tác động hỗ tương đến các hoạt động khác trong lĩnh vực tài chính như: thị trường chứng khoán, bảo hiểm...Khi Ngân hàng thương mại ngày càng phát triển và hoàn thiện thì càng có nhiều dịch vụ hỗ trợ cho các hoạt động trên. Ngược lại, sự phát triển phong phú và đa dạng của các sản phẩm trên thị trường tài chính sẽ tác động đến sự phát triển của các sản phẩm kinh doanh của Ngân hàng thương mại, từ đó, xuất hiện sự kết hợp và bán chéo sản phẩm của Ngân hàng thương mại với các định chế tài chính
khác như: công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty tài chính và quỹ đầu tư...góp phần gia tăng doanh số giao dịch trên thị trường tài chính.
Thứ ba, góp phần thực thi chính sách tiền tệ quốc gia: Ngân hàng Trung ương là cơ quan xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ nhưng để thực thi chính sách tiền tệ Ngân hàng Trung ương phải sử dụng các công cụ như: dự trữ bắt buộc, lãi suất, tái cấp vốn, thị trường mở...tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, thay đổi tăng hoặc giảm khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, góp phần bình ổn lưu thông tiền tệ của quốc gia, kiểm soát lạm phát.
1.2. Tổng quan về lợi nhuận của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về lợi nhuận của ngân hàng thương mại
Lợi nhuận của ngân hàng thương mại là khoản chênh lệch được xác định giữa tổng doanh thu phải trừ đi tổng các khoản chi phí phải trả hợp lý hợp lệ.
Lợi nhuận thực hiện trong năm là kết quả kinh doanh của Ngân hàng thương mại bao gồm lợi nhuận từ hoạt động nghiệp vụ (chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi) và lợi nhuận các hoạt động khác (thu dịch vụ ròng, thu từ kinh doanh ngoại tệ và hàng hoá phái sinh, thu từ kinh doanh chứng khoán, thu khác…) sau đó trừ đi các khoản chi phí phát sinh (chi nhân viên, chi tài sản, chi quản lý công vụ, chi phí khác…), phần trích dự phòng rủi ro và thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.2.2. Sự cần thiết gia tăng lợi nhuận đối với ngân hàng thương mại:
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động kinh doanh, do đó nó có ý nghãi vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng. Ý nghĩa của nó được thể hiện như sau :
+ Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và là mục đích hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong thị trường tài chính cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, mục tiêu hàng đầu của các ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận thấp đồng nghĩa với ngân hàng không đạt được mục tiêu kinh doanh của mỉnh.
+ Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh chất lượng kinh doanh của một ngân