Thẩm Quyền Và Thủ Tục Áp Dụng Biện Pháp Bảo Lĩnh

bảo vệ quyền trẻ em, BLTTHS năm 2003 quy định những đối tượng không bị áp dụng biện pháp tạm giam: bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng BPNC khác, trừ những trường hợp: a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; b) Bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

* Vấn đề áp dụng biện pháp bảo lĩnh đối với người chưa thành niên:

Đảng và Nhà nước ta đã thống nhất chủ trương, quan điểm về nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo đó, nguyên tắc xử lý chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.

Cùng với các quy định của BLHS 1999, BLTTHS năm 2003 cũng dành toàn bộ phần thứ 7 Thủ tục đặc biệt và Chương XXXII, từ Điều 301 đến Điều 310 quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội.

Người chưa thành niên chỉ có thể bị áp dụng tạm giam trong các trường hợp:

- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu có đủ căn cứ tạm giam, chỉ áp dụng BPNC này khi họ phạm tội rất nghiêm trọng do lỗi cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.

- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu có đủ căn cứ tạm giam chỉ áp dụng BPNC này khi họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Do đó, nếu người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu có đầy đủ căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam nhưng tội phạm mà họ thực

hiện là tội ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng do vô ý thì họ cũng không thể bị áp dụng biện pháp tạm giam. Đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu họ thực hiện tội phạm mà tội phạm đó là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng do cố ý thì trong mọi trường hợp họ không thể bị áp dụng biện pháp tạm giam.

Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiếp xúc với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên. Điều này tránh được những sai lầm lệch lạc khi xem xét, đánh giá, xử lý những hành vi phạm tội do người chưa thành niên gây ra. Bên cạnh đó, các chủ thể khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử cần phải xác định rõ tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên, điều kiện sinh sống và giáo dục, có hay không có người thành niên xúi giục, nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh chính là để đối tượng áp dụng được sống chung với cộng đồng, trong sự kèm cặp, giáo dục, quản lý, giúp đỡ của người nhận bảo lĩnh hoặc tổ chức đã bảo lĩnh kể cả gia đình của họ. Áp dụng biện pháp bảo lĩnh đối với người chưa thành niên phạm tội được thực hiện đúng theo quy định về căn cứ, điều kiện, thẩm quyền và thủ tục được quy định tại Điều 92 BLTTHS hiện hành.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

2.1.2. Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh

2.1.2.1. Thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh

Biện pháp bảo lãnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 7

Theo khoản 1 Điều 80 thì những người này có quyền quyết định cho bảo lĩnh, bao gồm 9 đối tượng người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện kiểm sát quân sự các cấp;

- Chánh án, Phó Chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp;

- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm TANDTC; Hội đồng xét xử;

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp.

- Thêm vào đó khoản 3 Điều 92 BLTTHS hiện hành quy định: “… Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh” [34].

Trong giai đoạn điều tra: Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC do những chủ thể được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003 quyết định. Lệnh tạm giam phải được sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành, nếu không có sự phê chuẩn đó thì mọi trường hợp lệnh tạm giam đều không có hiệu lực pháp luật.

Trong giai đoạn truy tố: Thẩm quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ BPNC do các chủ thể quy định tại điểm a khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003 quyết định. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ BPNC.

Trong giai đoạn xét xử: Thẩm quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC do chủ thể quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 80 BLTTHS và thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ BPNC, trừ việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án quyết định.

Như vậy, thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh được phân công cho nhiều cơ quan với nhiều chủ thể khác nhau tùy thuộc vào các giai đoạn tố tụng. VKSND có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát các hoạt động này.

2.1.2.2. Thủ tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh

- Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì cá nhân hoặc tổ chức muốn nhận bảo lĩnh phải làm đơn xin bảo lĩnh bị can, bị cáo. Đối với trường hợp là cá nhân thì đơn xin cần phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú, đối với trường hợp tổ chức xin bảo lĩnh thì đơn xin phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.

- Khi nhận bảo lĩnh, tổ chức hoặc cá nhân phải làm giấy cam đoan ghi rõ không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan THTT, đồng thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật khi vi phạm cam kết.

- Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh, các quyền, nghĩa vụ của họ.

2.1.3. Chủ thể bảo lĩnh và trách nhiệm pháp lý của các chủ thế

2.1.3.1. Chủ thể bảo lĩnh

Pháp luật TTHS hiện hành quy định cá nhân hoặc tổ chức có thể nhận bảo lĩnh. Trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh phải có ít nhất 2 người và là người thân thích của bị can, bị cáo. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh là thành viên của tổ chức mình. Theo Điều 75 BLTTHS năm 1988 trước đây thì cá nhân muốn đứng ra nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải có ít nhất 2 người nhưng lại chưa quy định rõ ràng về điều kiện áp dụng biện pháp này. Sự thiếu sót này đã được nhà làm luật ghi nhận trong Điều 92 BLTTHS năm 2003. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải có tư cách đạo đức tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc nhận bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức. Ví dụ: Ông A, bà B, có con là C đang bị tạm giam về tội đua xe trái phép.

Nay muốn bảo lĩnh cho con thì phải có xác nhận của công an khu vực hoặc ủy ban nhân dân xã, phường nơi ông bà cư trú hoặc phải có xác nhận của người đứng đầu cơ quan nơi ông A, bà B đang làm việc xác nhận về tư cách đạo đức và quá trình chấp hành pháp luật.

Pháp luật quy định điều kiện về tư cách đạo đức và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật là nhằm hạn chế những người đã từng có tiền án, tiền sự, những người có ảnh hưởng xấu tới xã hội như nghiện hút ma túy, mắc bệnh tâm thần… trở thành chủ thể nhận bảo lĩnh. Một mặt sẽ khó giáo dục được bị can, bị cáo. Mặt khác, khi giao bị can, bị cáo cho những đối tượng trên thì không lường trước được những hậu quả có thể xảy ra. Vì thế, chủ thể nhận bảo lĩnh phải là người đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của Điều 92 BLTTHS và họ phải thực hiện đúng trách nhiệm của mình khi đứng ra nhận bảo lĩnh bảo đảm bị can, bị cáo sẽ không tiếp tục phạm tội và có mặt đầy đủ khi có giấy triệu tập của cơ quan THTT trong thời gian được bảo lĩnh.

Nếu như Điều 75, BLTTHS năm 1988 chưa đưa ra tiêu chuẩn, điều kiện đối với cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh đến BLTTHS năm 2003 vấn đề này đã được khắc phục, cụ thể, một số điều kiện như: tổ chức nhận bảo lĩnh là nơi bị can, bị cáo là thành viên; nơi bị can, bị cáo làm việc, việc bảo lĩnh phải có sự xác nhận của người đứng đầu tổ chức đó.

2.1.3.2. Trách nhiệm pháp lý của các chủ thể

Theo quy định tại khoản 5 Điều 92 thì “Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng BPNC khác” [34].

So với quy định tại Điều 75 BLTTHS năm 1988 thì quy định tại khoản 5 Điều 92 BLTTHS năm 2003 về trách nhiệm của bị can, bị cáo khi người nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan là một điểm mới. Trường hợp cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì bị tước

quyền bảo lĩnh và chịu trách nhiệm về việc vi phạm nghĩa vụ. Trong trường hợp này, người đươc bảo lĩnh sẽ bị áp dụng BPNC khác nghiêm khắc hơn.

2.1.4. Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp bảo lĩnh

Hủy bỏ BPNC là việc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án quyết định không tiếp tục áp dụng BPNC đối với người đang bị áp dụng BPNC. Áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong nhiều trường hợp là cần thiết, nhưng cũng có nhiều trường hợp cần phải chấm dứt duy trì biện pháp này bởi không còn lý do để tiếp tục áp dụng hoặc xét thấy không cần thiết tiếp tục áp dụng. Ví dụ như trong giai đoạn điều tra, khi có căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 BLTTHS năm 2003 thì vụ án được đình chỉ, trường hợp này các BPNC đã áp dụng đều phải được hủy hỏ.

Thay thế BPNC là việc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng một BPNC khác thay cho biện pháp đang được áp dụng. Khác với việc hủy bỏ BPNC, người bị thay thế BPNC có thể bị đặt vào tình thế bất lợi hơn hay có lợi hơn tùy thuộc vào việc họ sẽ bị áp dụng BPNC nào thay cho biện pháp đang bị áp dụng. Khi quyết định thay thế người THTT phải căn cứ vào yêu cầu của việc giải quyết vụ án, các căn cứ áp dụng BPNC… Ví dụ như thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; thay thế biện pháp bảo lĩnh bằng biện pháp tạm giam…

2.2. Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới

Mỗi đất nước đều có nền văn hóa, xã hội khác nhau, chứa đựng sự đa dạng trong cách nghĩ, cách cảm, từ đó ảnh hưởng sâu sắc tới cách xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội. Dù những quy định là khác nhau trong việc xây dựng mô hình TTHS nhưng các quốc gia đều hướng tới bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Biện pháp bảo lĩnh được pháp luật các quốc gia quy định với nhiều căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng khác

nhau, mục đích áp dụng khác nhau... Việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa pháp lý của nhân loại trong việc quy định các BPNC nói chung và biện pháp bảo lĩnh nói riêng sẽ đem lại những lợi ích to lớn cho sự phát triển của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian và do khuôn khổ của luận văn không cho phép tác giả trình bày được nhiều quốc gia trên thế giới. Vì thế, chương 2 chỉ xin đề cập ngẫu nhiên 4 quốc gia đó là Cộng hòa liên bang Đức, Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản.

2.2.1. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức

BLTTHS Cộng hòa liên bang (CHLB) Đức được ban hành ngày 7/4/1987. Lần sửa đổi gần đây nhất là sửa đổi Điều 5 tiểu mục 4 ngày 10/10/2013. Trong BLTTHS Đức, biện pháp bảo lĩnh được quy định tại chương 1, phần 9, cụ thể: Điều 123, Điều 124 BLTTHS và một số quy định mang tính dẫn chiếu như Điều 112, Điều 113, Điều 116, Điều 120, 125, 126.

Theo quy định trong BLTTHS CHLB Đức thì biện pháp bảo lĩnh được xem là biện pháp ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam. Các quy định mang tính tùy nghi trong BLTTHS CHLB Đức tạo điều kiện cho chủ thể có thẩm quyền lựa chọn hoặc không lựa chọn biện pháp tạm giam nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp ít nghiêm khắc hơn vẫn đảm bảo được mục đích của việc tạm giam. Có thể hiểu, biện pháp ít nghiêm khắc là biện pháp phục vụ cho việc đình chỉ thi hành tạm giam (Điều 116), đó là các biện pháp: đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo và bảo lĩnh.

Căn cứ áp dụng. Tuy BLTTHS CHLB Đức không quy định trực tiếp căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh nhưng xem xét căn cứ của biện pháp bắt cho thấy, căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh là dựa vào tính chất của vụ án, hình phạt dự kiến, các biện pháp cải tạo và phòng ngừa để xem xét khả năng áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Bên cạnh đó, xem xét căn cứ áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, cho thấy bảo lĩnh có thể được áp dụng đối với tội phạm chỉ bị áp dụng mức phạt tù giam đến 6 tháng, hoặc phạt tiền đến một trăm

tám mươi đơn vị tính theo ngày (daily units) nếu họ đảm bảo làm giảm đáng kể khả năng gây khó khăn cho việc thu thập chứng cứ.

Bị can được áp dụng biện pháp ít nghiêm khắc hơn với điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ sau (Điều 116): Yêu cầu phải báo cáo tại những thời điểm nhất định với Văn phòng của Thẩm phán, Cơ quan Công tố, hoặc với một cơ quan nào đó do Tòa án quy định; Yêu cầu không được rời nơi cư trú, hoặc một địa điểm nhất định mà không được phép của Thẩm phán hoặc Cơ quan Công tố; Yêu cầu không được rời khỏi nhà riêng, trừ khi dưới sự giám sát của người được chỉ định; Thực hiện các biện pháp an ninh phù hợp của bị can hoặc một người khác. Đặc biệt, có thể yêu cầu người bị tình nghi không được tiếp xúc với đồng phạm, nhân chứng, hoặc chuyên gia.

- Thẩm quyền áp dụng: Thẩm phán quyết định biện pháp áp dụng (Điều 126).

Trước khi có quyết định khởi tố, Thẩm phán của tòa án địa phương nơi có thẩm quyền xét xử, hoặc nơi bị can đang sinh sống có thẩm quyền đối với các quyết định và biện pháp tố tụng liên quan đến tạm giam hoặc đình chỉ thi hành lệnh bắt. Sau khi đã có quyết định khởi tố, tòa án đã thụ lý vụ án sẽ có thẩm quyền. Sau khi đã có kháng cáo thì tòa án nơi có bản án bị kháng cáo sẽ có thẩm quyền, trên cơ sở đề nghị của Công tố viên.

Đối tượng áp dụng. BLTTHS CHLB Đức quy định đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh là bị can. Theo Điều 157 thì bị can là người đã có quyết định truy tố.

Thủ tục áp dụng: Bất cứ khi nào, bị can bị tạm giam cũng có thể yêu cầu tòa án xem xét việc hủy lệnh bắt hoặc đình chỉ việc thi hành lệnh bắt (khi bị can bị bắt sẽ được tạo điều kiện thông báo cho một người họ hàng hoặc người mà tòa án tin tưởng, với điều kiện không ảnh hưởng tới mục đích của việc điều tra). Sau khi Thẩm phán chuyên trách xem xét và ban hành quyết

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 30/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí