quyền ra quyết định giám sát nơi cư trú của bị can, bị cáo khi áp dụng bảo lĩnh. Như vậy, đối tượng áp dụng thay vì được tự do đi lại thì bị hạn chế nơi ở. Việc này khiến cho quá trình giám sát, quản lý, kiểm soát các đối tượng áp dụng tốt hơn nhưng cũng không cần thiết, vì nếu không quan tâm đến các điều kiện hạn chế khả năng trốn tránh thì biện pháp gì đặt ra cũng là vô hiệu hóa.
Thứ năm, xét về trách nhiệm của người vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan, mỗi quốc gia đều quy định chế tài khác nhau. Có nước quy định việc bảo lĩnh phải kèm theo nộp một khoản tiền nhất định do pháp luật quy định hoặc do tòa án quy định phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và khi người nhận bảo lĩnh hoàn thành nghĩa vụ sẽ được trả lại số tiền đã đặt bảo lĩnh. Nếu vi phạm sẽ bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ số tiền. Có quốc gia không hề quy định bảo lĩnh là phải nộp một khoản tiền bảo đảm, nhưng vẫn quy định số tiền phạt khi vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Tác giả cho rằng, nên tùy thuộc vào tính chất, mức độ thiệt hại mà bị can, bị cáo gây ra khi vi phạm nghĩa vụ để quy định số tiền xử phạt là hợp lý hơn cả, nếu vụ án cấu thành tội phạm thì bị can, bị cáo và những người có liên quan còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ sáu, về thời hạn bảo lĩnh. Đây là vấn đề ít có BLTTHS quốc gia nào đề cập đến, trong các quốc gia kể trên chỉ có CHND Trung Hoa quy định về thời hạn áp dụng bảo lĩnh. Quy định một thời hạn cụ thể đối với việc áp dụng BPNC là không hề dễ dàng, vì có những vụ án phức tạp thời hạn điều tra, gia hạn điều tra kéo dài rất lâu, những bị can, bị cáo trong các vụ án đó nếu được áp dụng biện pháp bảo lĩnh thì không thể xác định được chính xác là sẽ áp dụng trong thời hạn bao lâu. Vì vậy, nhà làm luật cần xem xét quy định sao cho phù hợp với tình hình thực tế của vụ án.
Chương 3
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ CÁC KIẾN NGHỊ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
3.1. Thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam
3.1.1. Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
Những năm vừa qua, các cơ quan THTT đã quan tâm đến việc thay đổi BPNC, trong đó không áp dụng biện pháp có tính chất nghiêm khắc cao chuyển sang áp dụng các biện pháp ít nghiêm khắc hơn. Đáng chú ý là tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh ít nhiều đã được các cơ quan THTT xem xét áp dụng đối với những trường hợp không cần thiết phải tạm giam. Thực tiễn cho thấy Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng biện pháp bảo lĩnh với những bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án tiền sự, không có biểu hiện gây cản trở điều tra, truy tố, xét xử… Ví dụ như trường hợp của các bị can Tạ Thị Thu Hạnh, Nông Thị Thùy Trang, Nguyễn Thị Tâm trong vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Cao Bằng vào khoảng tháng 11 năm 2013. Các bị can này đã tham gia đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa do Nguyễn Văn Bảo (quê quán Hải Phòng) cầm đầu đã cấu kết với nhóm người thường trú trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Ngày 10/1/2014, tại xã Đức Long, huyện Hòa An, cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng bắt quả tang và tạm giữ tại chỗ các đối tượng có mặt, tại thời điểm đó thu giữ trên chiếu hơn 20 triệu đồng tiền các loại, 13 điện thoại di động các loại, nhiều vật dụng khác phục vụ đánh bạc. Bị can Tạ Thị Thu Hạnh khai nhận xóc đĩa 2 lần tại các địa điểm thuộc khu vực Khuổi Diển, xã Lê Chung, Hòa An và xã Bạch Đằng, Hòa An, Cao Bằng; Nông Thị Thùy Trang khai nhận tham gia đánh bạc xóc đĩa 2 lần tại địa điểm thuộc xã Đức
Thông, Thạch An và xã Bạch Đằng, Hòa An, Cao Bằng; Nguyễn Thị Tâm khai nhận tham gia đánh bạc xóc đĩa 5 lần, tại các địa điểm thuộc xã Canh Tân, huyện Thạch An, xã Bạch Đằng, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Sau quá trình điều tra xét hỏi, xem xét hành vi và mức độ của tội phạm, nhân thân của 3 bị can trên, cơ quan cảnh sát điều tra đã gửi Đề nghị số 115/PC45 ngày 3/4/2013 về việc Đề nghị thay đổi BPNC tới VKSND tỉnh Cao Bằng, thay đổi từ biện pháp tạm giam sang biện pháp bảo lĩnh. Các bị can trên được áp dụng biện pháp bảo lĩnh bởi những lý do sau: (1) Tính chất của hành vi phạm tội của 3 bị can trên là ít nghiêm trọng, mức độ phạm tội không lớn. Các bị can đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đồng phạm, có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án tiền sự. Đồng thời bị can Tạ Thị Thu Hạnh đang mang thai 7 tháng, bị can Nguyễn Thị Tâm đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. (2) Xét đơn xin bảo lĩnh của gia đình các bị can và xét thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam đối với các bị can. (Nguồn: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng).
Hay trường hợp của bị can Nguyễn Văn Mạnh trong vụ án Trộm cắp tài sản 3 triệu đồng tại huyện Từ Liêm. Khoảng 16h ngày 04/7/2010, lợi dụng sơ hở của anh Nguyễn Tiến Thành (cùng xóm trọ với Mạnh) về quê và gửi chìa khóa lại cho Nguyễn Văn Mạnh (sinh ngày 5/2/1987 NKTT: thôn Phú Thụ, Lại Thượng, Thạch Thất, Hà Nội), nên Mạnh đã nảy sinh ý định trộm cắp. Mạnh mở cửa vào phòng trộm cắp 01 bộ máy vi tính của anh Thành (gồm 01 CPU và 01 màn hình vi tính) mang về phòng trọ cất giấu. Đến 4h ngày 05/7/2010, trên đường mang bộ máy vi tính đi tiêu thụ thì bị Cảnh sát cơ động kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng là 01 CPU và 01 màn hình Acer 17 ink LCD.
Tại kết luận số 77/KLĐG ngày 23/7/2010, Hôi đồng điṇ h giá TTHS quận Ba
Đình xác định trị giá các tài sản trên là: 3.000.000 đồng. Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Mạnh khai nhận tội. Ngày 21/7/2010, VKSND quận Ba Đình có
quyết định số 13/KSĐT chuyển vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Từ Liêm để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 7/8/2010, ông Nguyễn Văn Ninh và bà Khuất Thị Lý, là cha mẹ của Mạnh, có nộp đơn xin bảo lĩnh cho bị can. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án cho thấy, bị can Nguyễn Văn Mạnh được áp dụng biện pháp bảo lĩnh bởi: (1) Tính chất của hành vi phạm tội của bị can Nguyễn Văn Mạnh là ít nghiêm trọng, mức độ phạm tội không lớn. Bị can phạm tội lần đầu, đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình, có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự. (2) Xét đơn xin bảo lĩnh của gia đình bị can và xét thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam đối với Mạnh, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Từ Liêm đã đề nghị VKSND huyện Từ Liêm ra quyết định thay thế BPNC tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh. (Nguồn: VKSND huyện Từ Liêm).
Những ví dụ trên đã phần nào cho thấy sự nỗ lực không ngừng, quá trình tích lũy, nâng cao năng lực chuyên môn của các cơ quan THTT, sự mạnh dạn dám nghĩ dám làm trong giải quyết vụ án khách quan, nhanh chóng, hạn chế tới mức thấp nhất áp dụng biện pháp tạm giam theo đúng tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Theo Báo cáo tổng kết của VKSNDTC từ năm 2008 đến năm 2013 thì tình hình áp dụng các BPNC trong TTHS được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1: Số người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trên toàn quốc từ năm 2008 đến năm 2013
2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 2013 | Tổng số | |
Khởi tố | 135.967 | 121.187 | 151.007 | 143.191 | 150.909 | 151.163 | 706.296 |
Tạm giữ | 65.993 | 70.946 | 57.967 | 72.051 | 76.159 | 76.536 | 411.628 |
Tạm giam | 120.365 | 114.813 | 119.252 | 139.276 | 139.592 | 135.073 | 736.041 |
Biện pháp khác | 12.233 | 8.432 | 8.252 | 10.265 | 12.339 | 12.401 | 63.922 |
Có thể bạn quan tâm!
- Thẩm Quyền Và Thủ Tục Áp Dụng Biện Pháp Bảo Lĩnh
- Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
- Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Nhật Bản
- Một Số Tồn Tại, Hạn Chế Của Việc Áp Dụng Biện Pháp Bảo Lĩnh Trong Luật Tố Tụng Hình Sự
- Về Đối Tượng Bị Áp Dụng Biện Pháp Bảo Lĩnh
- Về Chế Độ Trách Nhiệm Của Các Chủ Thể Bảo Lĩnh
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
Nguồn: Cục thống kê tội phạm và công nghệ thông tin, VKSNDTC.
Bảng số liệu 2.1 cho thấy: Số lượng người bị tạm giữ, tạm giam trên toàn quốc mỗi năm đều cao, các biện pháp thay thế tạm giam có dấu hiệu áp dụng nhưng với số lượng rất thấp. Ví dụ: Năm 2008, các cơ quan THTT trên cả nước đã tạm giam 120.365 bị can, trong đó thay thế biện pháp này là 12.233, tương đương với 10,16% số bị can áp dụng biện pháp tạm giam. Năm 2009, số lượng bị can bị tam giam là 114.813, số bị can được áp dụng biện pháp khác thay thế tạm giam là 8.432, tương đương với 7,3%... Những số liệu này phản ánh phần nào việc các cơ quan THTT vẫn coi biện pháp tạm giam như một BPNC chủ yếu, các biện pháp ít nghiêm khắc hơn tạm giam được áp dụng nhưng ở mức rất thấp, nếu chia đều cho 63 tỉnh, thành phố thì tỷ lệ này không đáng kể. Những con số chỉ báo rằng hoặc là biện pháp tạm giam đang bị các cơ quan THTT lạm dụng, hoặc là số lượng bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nhiều cả về chất và lượng dẫn đến việc thay thế tạm giam bởi một biện pháp khác ít nghiêm khắc hơn sẽ không đạt được mục đích áp dụng. Mặt khác, nhìn vào bảng số liệu cho thấy mức độ áp dụng các biện pháp thay thế tạm giam như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là bao nhiêu thì không thấy Báo cáo ghi nhận. Có lẽ số liệu những biện pháp ấy quá ít nên không được đưa vào. Nhưng như thế sẽ là thiếu chính xác và thiếu khách quan, bởi nếu không tổng hợp đầy đủ, chi tiết các số liệu nhỏ nhặt này thì làm sao biết được các biện pháp thay thế tạm giam đã được áp dụng như thế nào, ở mức độ nào, để từ đó có những đánh giá tính khả thi của pháp luật khi quy định về các biện pháp này, để có hướng điều chỉnh quy phạm pháp luật cho phù hợp với lý luận và thực tiễn.
Không dừng lại ở việc nghiên cứu tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong TTHS trên toàn quốc, với tất cả sự cố gắng của bản thân, tác giả đã tìm kiếm từ rất nhiều nguồn tư liệu liên quan tới biện pháp bảo lĩnh bằng nhiều
hình thức khác nhau. Tuy nhiên do hạn chế về mặt không gian và thời gian, tác giả chỉ có thể thu thập được số liệu về tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh tại thành phố Hà Nội và một số quận, huyện trên địa bàn thành phố từ năm 2008 đến năm 2013 để làm minh chứng sinh động về thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong thời gian qua.
Theo đó, số liệu thu thập trên toàn thành phố Hà Nội và một số quận, huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2008 đến năm 2013 về tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các cơ quan THTT được thể hiện như sau:
Bảng 2.2: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại Thành phố Hà Nội
Tạm giam | Cấm đi khỏi nơi cư trú | Biện pháp khác | Số bị can bị khởi tố | ||||
Số bị can | % | Số bị can | % | Số bị can | % | ||
2008 | 6.375 | 70,9 | 1.743 | 19,4 | 873 | 9,7 | 8.991 |
2009 | 6.376 | 69,5 | 1.635 | 17,8 | 1.169 | 12,7 | 9.180 |
2010 | 7.323 | 69,6 | 2.008 | 19,1 | 1.191 | 11,3 | 10.522 |
2011 | 8.153 | 65,9 | 2.103 | 17,0 | 2.123 | 17,2 | 12.379 |
2012 | 7.934 | 67,6 | 2.368 | 20,2 | 1.412 | 12,1 | 11.714 |
2013 | 7.706 | 67,2 | 1.875 | 16,4 | 1.886 | 16,4 | 11.467 |
Tổng số | 43.867 | 68,3 | 11.732 | 18,3 | 8.654 | 13,4 | 64.253 |
Nguồn: VKSND Thành phố Hà Nội.
Năm 2008 - 2013 toàn thành phố Hà Nội có tất cả 64.253 bị can bị khởi tố, trong số đó có tới 68,2% bị can bị tạm giam, số còn lại áp dụng các biện pháp thay thế tạm giam như là: Cấm đi khỏi nơi cư trú có 18,2% và các biện pháp khác là 13,4%.
Bảng số liệu 2.2 có điểm chung với bảng 2.1 của VKSNDTC là không phân biệt rạch ròi các biện pháp thay thế tạm giam. Tuy nhiên, VKSND thành phố Hà Nội đã cụ thể hóa hơn các số liệu về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
Số liệu về biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm mặc dù không được ghi nhận cụ thể nhưng đã thể hiện là có được áp dụng trên thực tế. Sẽ là thiếu khách quan nếu như chỉ đánh giá tình hình các cơ quan THTT áp dụng biện pháp bảo lĩnh qua nhóm những biện pháp khác mà không tìm hiểu sâu xa mức độ áp dụng biện pháp này. Chỉ khi tìm hiểu chi tiết tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh tại một số quận, huyện cụ thể trong thành phố Hà Nội, mới có thể đưa ra cái nhìn khách quan hơn về thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh, khả năng áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong TTHS tại các cơ quan có thẩm quyền.
Bảng 2.3: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại quận Hoàng Mai
Tạm giam | Cấm đi khỏi nơi cư trú | Đặt tiền hoặc tài sản | Bảo lĩnh | Số bị can bị khởi tố | |||||
Số bị can | % | Số bị can | % | Số bị can | % | Số bị can | % | ||
2008 | 311 | 67,0 | 142 | 30,6 | 11 | 2,4 | 0 | 0 | 464 |
2009 | 316 | 66,0 | 157 | 32,8 | 6 | 1,3 | 0 | 0 | 479 |
2010 | 382 | 72,6 | 134 | 25,5 | 10 | 1,9 | 0 | 0 | 526 |
2011 | 440 | 74,6 | 140 | 23,7 | 10 | 1,7 | 0 | 0 | 590 |
2012 | 459 | 73,7 | 157 | 25,2 | 7 | 1,1 | 0 | 0 | 623 |
2013 | 402 | 63,5 | 225 | 35,5 | 6 | 0,9 | 0 | 0 | 633 |
Tổng số | 2.310 | 69,7 | 955 | 28,8 | 50 | 1,5 | 0 | 0 | 3.315 |
Nguồn: VKSND quận Hoàng Mai.
Năm 2008 – 2013 quận Hoàng Mai có tất cả 3.315 bị can bị khởi tố, trong số bị can bị khởi tố thì có tới 69,7% số đó bị tạm giam, số còn lại áp dụng các biện pháp thay thế tạm giam như là: Cấm đi khỏi nơi cư trú có 28,8%, đặt tiền hoặc tài sản có 1,5% và không có bị can nào được áp dụng biện pháp bảo lĩnh.
Bảng 2.4: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại quận Cầu Giấy
Tạm giam | Cấm đi khỏi nơi cư trú | Đặt tiền hoặc tài sản | Bảo lĩnh | Số bị can bị khởi tố | |||||
Số bị can | % | Số bị can | % | Số bị can | % | Số bị can | % | ||
2008 | 196 | 73,4 | 71 | 26,6 | 0 | 0 | 0 | 0 | 267 |
2009 | 205 | 71,2 | 83 | 28,8 | 0 | 0 | 0 | 0 | 288 |
2010 | 105 | 58,7 | 74 | 41,3 | 0 | 0 | 0 | 0 | 179 |
2011 | 115 | 78,8 | 31 | 21,2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 146 |
2012 | 293 | 74,0 | 103 | 26,0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 396 |
2013 | 361 | 82,4 | 73 | 16,8 | 0 | 0 | 0 | 0 | 434 |
Tổng số | 1.275 | 74,5 | 435 | 25,5 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1.710 |
Nguồn: VKSND quận Cầu Giấy.
Năm 2008 - 2013 quận Cầu Giấy có tất cả 1.710 bị can bị khởi tố, trong số bị can bị khởi tố thì có tới 74,5% số đó bị tạm giam, số còn lại áp dụng các biện pháp thay thế tạm giam như là: Cấm đi khỏi nơi cư trú có 25,5%, không có bị can nào được áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản hay biện pháp bảo lĩnh.
Bảng 2.5: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại huyện Từ Liêm (cũ)
Tạm giam | Cấm đi khỏi nơi cư trú | Đặt tiền hoặc tài sản | Bảo lĩnh | Số bị can bị khởi tố | |||||
Số bị can | % | Số bị can | % | Số bị can | % | Số bị can | % | ||
2008 | 322 | 77,6 | 90 | 21,7 | 0 | 0 | 3 | 0,72 | 412 |
2009 | 361 | 78,0 | 102 | 22,0 | 0 | 0 | 0 | 0,00 | 463 |
2010 | 384 | 74,6 | 127 | 24,7 | 0 | 0 | 4 | 0,78 | 515 |
2011 | 461 | 83,7 | 86 | 15,6 | 0 | 0 | 5 | 0,73 | 551 |
2012 | 487 | 77,5 | 139 | 22,1 | 0 | 0 | 2 | 0,31 | 628 |
2013 | 445 | 75,4 | 140 | 23,7 | 0 | 0 | 5 | 0,85 | 590 |
Tổng số | 2.460 | 77,8 | 681 | 21,5 | 0 | 0 | 19 | 0,60 | 3.126 |
Nguồn: VKSND huyện Từ Liêm.