Tình Hình Nghiên Cứu Trên Thế Giới


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU


1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Quyền con người (nói chung) và quyền của NCTN là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong suốt các giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại. Trong luận án này, khi nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, tác giả sẽ tập trung xem xét trong khoa học pháp lý Quốc tế và Việt Nam: vấn đề này đã được đặt ra từ

khi nào? ở đâu? đã giải quyết được đến đâu? Con

nhưn

g vân

đề gì về lý luân

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

cun

g như thưc

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam - 3

tiên

cân

tiêp

tuc

đặt ra và giải quyết? Đây chính là cơ sở cho việc

đưa ra những kết quả nghiên cứu mới trong lĩnh vực này.

1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Trước tiên, phải kể đến Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền

(ngày 26/08/1789) được các nhà cách mạng Pháp công bố, đánh dấu sự phát triển lên một bậc thang mới của quyền con người. Tuy nhiên, thành tựu quan trọng cho sự phát triển quyền con người đó chính là sự ra đời của Tuyên ngôn

thế

giới về

quyền con người (UDHR) -

được Đại Hội đồng Liên Hợp

Quốc thông qua ngày 10/12/1948, tại Palaisde Chaillot, Paris, Pháp. Ngày 16/12/1966, Liên Hợp Quốc thông qua hai Công ước quốc tế về quyền con

người, là

Công

ước về

các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) và

Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Có thể khẳng định, đây là ba văn kiện quốc tế quan trọng đặt nền tảng cho khung pháp luật quốc tế về quyền con người.

Về vấn đề bảo vệ quyền NCTN (trẻ em) bằng tư pháp hình sự, ngoài ba văn kiện nêu trên, Liên Hợp Quốc đã thông qua một loạt các văn bản như sau: Quy tắc tiêu chuẩn tối thiếu của Liên Hợp Quốc về quản lý tư pháp đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) 1985; Quy tắc của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa NCTN bị tước quyền tự do, 1990; Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về


phòng ngừa phạm pháp của NCTN (Hướng dẫn Riyadh), 1990; Tuyên bố về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi của trẻ em, đặc biệt là việc bảo trợ và nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài, 1986; Hướng dẫn về hành động đối với trẻ em trong Hệ thống luật hình sự, phụ lục của Nghị quyết số 1997/30 của Hội đồng kinh tế và xã hội về việc quản lý tư pháp với NCTN (ICCPR, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16/12/1966, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976).

Lĩnh vực bảo vệ quyền của NCTN nói chung và bảo vệ quyền của NCTN liên quan tới tư pháp hình sự nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:

- Cuốn sách:

"American juvenle Justice" (Tư

pháp NCTN của Hợp

chủng quốc Hoa Kỳ) là công trình của Franklin E.Jimring được Oxford University xuất bản năm 2005. Tác giả đã đề cập đến các giai đoạn phát triển của tư pháp NCTN, đặc biệt là sự hình thành và phát triển của tòa án NCTN ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ qua các giai đoạn lịch sử. Với 4 phần chính, bao gồm: Trẻ em phạm tội: Thực trạng và quan điểm pháp luật, thành lập tư pháp NCTN Hợp chủng quốc Hoa kỳ, bảo vệ NCTN phạm tội và các vấn đề chính sách trong tư pháp NCTN hiện đại. Với 193 trang viết, tác giả đã xuyên suốt quá trình hình thành hệ thống tư pháp NCTN ở Mỹ; đặc biệt đã đi sâu vào phân tích các quan điểm khác nhau về tư pháp NCTN, nhất là những quan điểm đối lập. Trên cơ sở các quan điểm, tác giả lý giải nguyên nhân của sự cần thiết thiết lập tòa án NCTN, sự xử lý chuyển hướng đối với tội phạm NCTN,... Trên cơ sở này tác giả đã xem xét vấn đề tư pháp NCTN trên góc nhìn đối chiếu giữa lý thuyết và thực tiễn, từ đó đặt ra những đòi hỏi phải hoàn thiện tư pháp NCTN trên cơ sở cân bằng lợi ích của xã hội, người giám hộ và NCTN.

- Cuốn sách "Child protect in America: Past, Present and Future, John"

(Bảo vệ trẻ em ở Mỹ: Quá khứ, hiện tại và tương lai) do E. B, Myers thực


hiện được Oxford University xuất bản năm 2006. Trong cuốn sách tác giả tập trung vào đối tượng nghiên cứu là trẻ em bị lạm dụng và bị bỏ rơi, trên cơ sở đó tìm kiếm những giải pháp làm giảm tình trạng trẻ em bị lạm dụng, bị xao nhãng trong xã hội Mỹ thông qua việc đề xuất các biện pháp cải cách hệ thống bảo vệ trẻ em. Với hai mục đích trên, tác giả đã chia cuốn sách thành hai phần, cụ thể: Phần 1 tập trung vào việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ em tại Mỹ; Phần 2, tập trung phân tích những nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm dụng và bỏ mặc trẻ em từ quá khứ đến hiện tại. Trên cơ sở chỉ ra những thay đổi trong xã

hội và nguyên nhân dẫn đến việc bảo vệ trẻ em bị ngược đãi không đạt

hiệu quả như mong muốn, tác giả đưa ra những giải pháp cần thiết để hoạt động bảo vệ trẻ em bị lạm dụng và bị bỏ mặc đạt hiệu quả bền vững.

- Cuốn: "Juvenile Court: A Judge's Guide for young adults and Their Parents" (Tòa án NCTN: Hướng dẫn pháp lý cho NCTN và cha mẹ do Leora Krygier công bố được The Scarecrow phát hành năm 2009. Công trình đã giới thiệu một cách có hệ thống về khái niệm NCTN, mục đích của việc thành lập tòa án NCTN, cơ cấu tổ chức hệ thống tòa án NCTN. Sự cần thiết phải thành lập tòa án NCTN độc lập với tòa án thành niên. Phần 2 của cuốn sách, tác giả đã giới thiệu những kỹ năng cần thiết khi nhận được Giấy triệu tập của Tòa án đối với NCTN và cha mẹ của họ; những kiến thức cần biết về các nhân viên thực thi pháp luật; những kỹ năng cần thiết khi làm việc với những nhân viên thực thi pháp luật, chẳng hạn như cảnh sát đang thi hành công vụ ở các tình huống khác nhau. Đồng thời tác giả cũng giới thiệu các quyền của NCTN khi bị tạm giữ hoặc bị tham gia quá trình tố tụng hình sự. Mặt khác, cuốn sách tập trung làm rõ tiến trình tố tụng của tòa án NCTN, những kỹ năng cần thiết cho NCTN khi tham gia tố tụng hình sự để có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của họ. Với kinh nghiệm của một thẩm phán đã 15 năm làm việc tại Tòa án NCTN, tác giả đã khá thành công trong việc hướng dẫn các kiến thức pháp lý và kỹ năng cần thiết cho


những NCTN và cha mẹ của NCTN khi gặp những vấn đề với pháp luật để NCTN và cha mẹ của họ có những kiến thức và kỹ năng cần thiết để bảo

vệ quyền và lợi ích chính đáng của NCTN và đồng thời giúp cho NCTN

tránh được nguy cơ gặp những vấn đề với pháp luật trong tương lai.

- Cuốn "Protecting the world's children: Impact of the Convention of the Rights of the Child in Diverse Legal Systems" (Bảo vệ trẻ em trên thế giới: Tác động của Công ước về quyền trẻ em tới các hệ thống pháp luật) do UNICEF ấn hành năm 2007 lại xem xét vấn đề tư pháp NCTN dưới góc nhìn so sánh các kinh nghiệm lập pháp trong việc đưa CRC vào khung pháp luật của các quốc gia và cung cấp thực tiễn thực thi CRC tại 191 quốc gia với bốn hệ thống pháp luật điển hình: Hệ thống pháp luật Common Law, hệ thống pháp luật Civil Law, hệ thống pháp luật Muslim và hệ thống pháp luật Châu Phi thuộc khu vực tiểu sa mạc Sahara.

- Cuốn: "Child Protection and Juvenile Justice system for juvenile in

conflict with law" (Bảo vệ trẻ em hệ thống tư pháp NCTN đối với trẻ em

xung đột với pháp luật), Tác giả Ms. Maharukh Adenwalla, do Inconpaper

xuất bản. Cuốn sách đã làm rõ khái niệm NCTN, NCTN xung đột với pháp luật, tuổi chịu trách nhiệm hình sự của NCTN; vai trò của cảnh sát, của người giám sát NCTN thực thi hình phạt cải tạo không giam giữ; vai trò của nhân

viên công tác xã hội, của các tổ chức phi chính phủ, của luật sư, của các

phương tiện truyền thông đối với NCTN xung đột với pháp luật tại Ấn Độ. Tác giả đã thông qua 13 nghiên cứu trường hợp điển hình về NCTN xung đột ở Ấn Độ để làm rõ các luận điểm của mình.

- Cuốn: "Justice for Children: Autonomy Development and the State" (Tư pháp cho trẻ em: Sự phát triển tính tự quản của trẻ em và sự can thiệp của Nhà nước) do Harry Adams thực hiện nghiên cứu và Đại học New York ấn hành năm 2008. Với hơn 197 trang viết, tác giả đã đề cập đến sự thay đổi của lứa tuổi NCTN thông qua những biến đổi về tâm sinh lý. Đây là giai đoạn NCTN có sự biến đổi lớn về nhận thức và hành vi, trẻ chuyển từ trạng thái


luôn gắn bó với cha mẹ, coi cha mẹ là thần tượng sang trạng thái muốn thoát dần ảnh hưởng của cha mẹ, có khuynh hướng độc lập. Qua đó tác giả đề xuất những khu vực mà NCTN có thể "tự quản", và đồng thời xác lập những giới hạn cần thiết thông qua sự can thiệp của gia đình, nhà trường và pháp luật đối với hành vi của trẻ. Mặt khác, tác giả cũng khẳng định không có học thuyết pháp lý nào là hoàn hảo tuyệt đối để áp dụng duy nhất.

- Cuốn: "Justice for Children: Detention as a Last Resort" (Innovative

Initiatives in the East Asia and Pacific Region) (Tư pháp cho trẻ em: Phạt tù như là biện pháp cuối cùng (Sáng kiến ở khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương), do tổ chức Unicef East Asia And Pacific Regional Office (EAPRO) ấn hành. Công trình tiếp cận vấn đề tư pháp NCTN thông qua thực tiễn ba quốc gia: Philipin, Thái Lan, Campuchia. Tư pháp NCTN không chỉ nhằm mục đích hướng tới NCTN phạm tội mà còn giải quyết các vấn đề liên quan đến trẻ em là nạn nhân của nghèo đói, lạm dụng, bóc lột sức lao động, trẻ em là nạn nhân của việc buôn người, nạn nhân của công nghiệp tình dục,...Trên cơ sở tiếp cận dưới góc độ những tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế, đối chiếu với những hoạt động lập pháp của các quốc gia, thực tiễn thực thi pháp luật bảo vệ quyền trẻ em tại các quốc gia này thông qua các mô hình tư pháp hình sự được thiết lập, và ở đó việc áp dụng hình phạt tù đối với NCTN như là biện pháp cuối cùng.

- Cuốn: "Handbook for Professionals And Policymakers on Justice

Matters Involving Child Victims and Witnessed of Crime" (Sổ tay cho những người làm công tác pháp luật và xây dựng chính sách liên quan đến nạn nhân và nhân chứng trẻ em), là một trong số series các cuốn sổ tay tư pháp hình sự do Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về ma túy và hình sự phát hành năm 2009. Cuốn sách đã cung cấp các kiến thức nền tảng về tư pháp NCTN cho các nhà hoạt động chuyên nghiệp: Thẩm phán, luật sư,...nhằm bảo đảm tốt nhất quyền của trẻ em khi buộc phải tham gia vào hoạt động tư pháp hình sự trên hai phương diện: nạn nhân của tội phạm và nhân chứng. Các nguyên


tắc được đưa ra xây dựng trên nền tảng các nguyên tắc của pháp luật quốc tế: Quy tắc Bắc Kinh, Hướng dẫn Ryard và được cụ thể hóa trong các bộ luật của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

- Cuốn: "Canadian Child Welfare Law: Children, Famillies and the

State" (Luật bảo vệ, chăm sóc trẻ em Canada: Trẻ em, gia đình và Nhà nước

do các tác giả: Nicholas Bala, Michale Kim Zapf, R.James Williams, Robin

Volg, Joseph p. Hornick do nhà xuất bản Thompson Educational Publishing

ấn hành năm 2004. Công trình đã trình bày một cách hệ thống pháp luật

Canada trong việc quy định và thực thi việc bảo vệ trẻ em, được viết bởi các giáo sư luật học, giáo sư xã hội học, nhà nghiên cứu thuộc các trường đại học: Queen's University, Kingston, Ontario, University of Calgary, Alberta và các thẩm phán, luật sư có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực hỗ trợ và tiếp xúc với NCTN liên quan tới tư pháp hình sự. Sách đã đề cập đến những vấn đề tư pháp hình sự liên quan đến NCTN như: Pháp luật chăm sóc trẻ em

của Canada, các quyền của trẻ

em tham gia tố

tụng hình sự

như: quyền

được lắng nghe, vấn đề bảo vệ mãi dâm NCTN, trẻ em bị lạm dụng, bị bỏ mặc, trẻ em là nhân chứng, trẻ em bị cáo buộc phạm tội.

Từ việc tham khảo các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, Luận án sẽ kế thừa, tiếp tục phát triển những ưu điểm sau:

Một là, các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận của việc bảo vệ quyền con người trong TTHS, trước hết là xuất phát từ mối quan hệ giữa quyền con người, quyền công dân và những bảo đảm quyền con người trong các quan hệ phát sinh trong TTHS. Hoạt động TTHS có đặc thù là mang tính cưỡng chế và được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước, do đó gắn liền với các hoạt động TTHS luôn là sự phát sinh, hạn chế hoặc chấm dứt một số quyền cơ bản của công dân. Trong TTHS, các biện pháp bảo đảm pháp lý của các quyền chủ thể tham gia tố tụng bao gồm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, các quy định về thủ tục, trình tự tố tụng, các giai


đoạn của TTHS, các hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là điểm xuất phát rất quan trọng, là cơ sở lý luận mang tính tiền đề để tác giả luận án tiếp tục đi sâu phân tích cơ sở lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS và các biện pháp mang tính xuất phát điểm về mặt lý luận nhằm bảo vệ hiệu quả quyền của NCTN trong TTHS Việt Nam.

Hai là, các công trình nghiên cứu đã cung cấp cho tác giả một cái nhìn toàn diện về khái niệm quyền của NCTN và tiếp cận được với khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS dưới góc độ luật học so sánh. Mặc dù các nước với các hệ thống pháp luật khác nhau, tiếp cận khái niệm quyền của NCTN dưới các góc độ khác nhau nhưng tổng quan các tài liệu này cho phép tác giả có cơ sở khái quát khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS một cách đa chiều và có tính so sánh, đối chiếu.

Ba là, những kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với Luận án là đã khái quát được một cách khá đầy đủ thực trạng pháp luật quốc tế về quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, từ đó giúp tác giả có cơ sở để nghiên cứu so sánh với thực trạng pháp luật Việt Nam về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS và có thể luận giải đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Quyền con người từ lâu đã là đối tượng quan tâm của nhiều ngành khoa học xã hội, trong đó có khoa học pháp lý. Trong đó, quyền của NCTN trong TTHS đã được được xem xét và đề cập dưới nhiều cấp độ:

- Quyền con người nói chung, bảo vệ Quyền con người;

- Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN;

- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS.


Trong quá trin

h nghiên cưu

tai

liêu

phuc

vụ cho viêc

nghiên cưu

đề taì

nay

, tac

giả tâp

hơp

, phân loai

và đan

h giá cac

tai

liêu

than

h ba nhom

theo cać

vân

đề trên. Cụ thể như sau:

Nhóm các công trình nghiên cứu về


quyền con người và bảo vệ

quyn con người nói chung gồm có: Sách chuyên khảo “Quyền con người - Tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học” - GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội, 2010 (3 tập, 1010 tr), “Quyền con người” (Giáo trình giảng dạy sau đại học) - GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (487 tr), Sách chuyên khảo: “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ Quyền con người”

-GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (431 tr), Giáo trình “Lý luận và pháp luật về Quyền con người”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009, Nxb CTQG (670 tr); Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự và tố tụng hình sự ở Việt Nam, Trần Quang Tiệp, NXB Chính trị Quốc gia 2004;

Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, Phạm Hồng Hải, NXB

CAND năm 2004; Quyền con người trong quản lý tư pháp - Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người và hội luật sư quốc tế - Nxb CAND, 2009.

Các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này đã tiếp cận vấn đề quyền con người đa ngành, đa lĩnh vực và nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về quyền con người; chỉ ra được nội dung của các quyền con người nói chung, quyền con người trong các lĩnh vực cụ thể, trong đó khẳng định quyền con người là giá trị đã được nhân loại thừa nhận chung; đề cập đến các tính chất của quyền con người như tính bất khả tước đoạt, bất khả phân chia, tính phổ biến, tính đặc thù của quyền con người; nghiên cứu pháp luật quốc tế về quyền con người trong đó so sánh pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về vấn đề quyền con người, khả năng tiếp thu và nội luật hóa pháp

luật quốc tế vào pháp luật quốc gia... Tuy nhiên, trong các công trình trên,

quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN chưa được thể hiện rõ, mới chỉ dừng

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/11/2022