Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và giá trị kế thừa - 15

khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người phải theo quy định của pháp luật. Pháp luật hình sự và tố tụng hình sự cũng đã cụ thể hóa các quyền của người phạm tội bằng các quy định của mình như: khẳng định các nguyên tắc Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự; nguyên tắc bảo vệ quyền cơ bản của công dân; nguyên tắc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, suy đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền minh oan…Những quy định đó đã thể hiện sự quan tâm của nhà nước tới việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự. Tuy nhiên những điều đó chưa đủ, cần phải có những giải pháp phù hợp để góp phần hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.

Thứ nhất: ghi nhận cụ thể những quyền của người bị buộc tội và phạm tội trong hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng hình sự

Việc ghi nhận quyền của người bị buộc tội trong các quá trình điều tra, truy tố, xét xử và người phạm tội, tù nhân không phải là sự ban phát từ phía nhà nước mà bắt nguồn từ nhiều yếu tố trong đó có việc thừa nhận những giá trị cao quý mà nhân loại đã thừa nhận qua hàng ngàn năm lịch sử. Người bị buộc tội là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn người phạm tội là người bị kết án. Trong Bộ luật Hồng Đức, những đối tượng này được quan tâm bảo vệ dưới nhiều hình thức nhưng pháp luật chưa có chế định nào quy định trực tiếp các quyền của họ trong các giai đoạn tố tụng. Để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị buộc tội và người phạm tội theo hướng tiến bộ, phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền con người, pháp luật hiện hành cần phải hoàn thiện hơn nữa quy định về quyền của nhóm đối tượng này bằng cách ghi nhận cụ thể những quyền của người bị buộc tội và người phạm tội để tránh sự lạm dụng, xâm hại từ các cơ quan nhà nước và các cá nhân thi hành công vụ. Pháp luật hiện đại đã có nhiều quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho các đối tượng này, trước hết là đã xây dựng được một hệ thống các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi cho họ. Những nguyên tắc đó được cụ thể hóa trong nhiều chế định như chứng minh, chứng cứ, các biện pháp ngăn chặn, nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng; các quy định về xét xử của Tòa án và vấn đề minh oan cho người bị oan… Trong tất cả các

giai đoạn tố tụng, quyền lợi của nhóm đối tượng này cũng được quy định khá đầy đủ như: quyền được biết mình bị buộc tội về tội gì; quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình; quyền được chứng minh sự vô tội của mình bằng việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; quyền được khiếu nại các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền được tham gia phiên tòa và tranh luận tại phiên tòa; quyền không bị xét xử một cách quá chậm trễ (thể hiện các quy định về thời hạn tạm giữ để khởi tố vụ án, thời hạn điểu tra, thời hạn truy tố, thời hạn xét xử. Hết thời hạn tạm giữ nếu cơ quan điều tra không có căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ; nếu hết thời hạn điều ta không chứng minh được tội phạm thì phải đình chỉ điều tra, hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, trả lại cho họ trạng thái bình thường của người vô tội và xin lỗi công khai, bồi thường…); quyền được xét xử tại tòa án độc lập, công khai và công bằng theo thủ tục chặt chẽ và thời hạn nhất định; quyền tranh tụng bình đẳng với bên buộc tội, quyền kháng cáo…. Tất cả những quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị buộc tội và người phạm tội sao cho được xét xử công bằng, đúng pháp luật, đúng người đúng tội và chịu trách nhiệm thích đáng với hành vi mà mình gây ra.

Hiện nay, pháp luật thế giới đã ghi nhận một số quyền tiến bộ mà pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận hoặc có ghi nhận nhưng chưa có cơ chế để thực hiện và chưa phát huy được hiệu quả như: quyền được im lặng, quyền không buộc phải đưa ra chứng cứ nhằm chống lại chính mình, quyền thu thập đưa ra chứng cứ, quyền bào chữa…vẫn chưa được quy định cụ thể và chưa có cơ chế để thực hiện. Do đó, pháp luật cần hoàn thiện theo hướng ghi nhận và có cơ chế để thực hiện quyền này.

Thứ hai: Quy định chặt chẽ quyền hạn và nghĩa vụ của các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp lạm quyền, tùy tiện, thiếu trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền

Trong mối quan hệ giữa người bị kết tội, người phạm tội và cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền thì người bị kết tội, người phạm tội ở thế bị động. Các cá nhân, và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ở vị thế chủ động, được nhân danh nhà nước tiến hành các biện pháp nghiệp vụ nhằm phát hiện, xử lý tội phạm. Pháp luật cho phép họ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong đó hạn chế một

số quyền tự do của người bị tình nghi, bị can, bị cáo như tạm giam, tạm giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú và nhiều biện pháp cưỡng chế hình sự khác như khám người, khám chỗ ở…Chính vì thế, các biện pháp đó không thể được áp dụng một cách tùy tiện mà chỉ được thực hiện khi có căn cứ và theo đúng trình tự, thủ tục luật định để đảm bảo quyền lợi cho người bị áp dụng. Muốn vậy một mặt phải hoàn thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự đồng thời quy định chặt chẽ nghĩa vụ của các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực thi pháp luật tránh tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm khi thi hành công vụ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị áp dụng và làm mất niềm tin của nhân dân với nhà nước. Hạn chế ở mức thấp nhất việc áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam, đồng thời mở rộng các biện pháp khác nhân đạo, “mềm” hơn như bảo lãnh… Bộ luật Hồng Đức đã giải quyết rất tốt vấn đề này, vừa quy định rõ trách nhiệm cụ thể của đội ngũ quan lại, vừa kiểm soát tốt mối quan hệ giữa các cơ quan công quyền với nhau và với nhà nước qua đó hạn chế quyền lực của các cơ quan thi hành pháp luật từ đó tránh được việc lạm quyền, tùy tiện…làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị buộc tội, tội phạm và người thi hành án. Đó là những kinh nghiệm quý báu mà pháp luật hiện đại nên kế thừa.

Bên cạnh việc quy định chặt chẽ những nghĩa vụ, quyền hạn của những người thi hành công vụ cần phải có cơ chế hiệu quả để giám sát hoạt động, kiểm soát quyền lực của các cá nhân và cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để đảm bảo hoạt động của các cơ quan này diễn ra đúng pháp luật, không bị lạm quyền, không bị tha hóa dẫn đến việc vi phạm quyền con người của người bị kết tội, người phạm tội và người phải thi hành án. Có chế tài xử lý nghiêm những hành vi bắt tạm giữ, tạm giam quá mức cần thiết hoặc trái pháp luật của những người tiến hành tố tụng.

Thứ ba: Nghiêm cấm các hành vi ngược đãi, sử dụng bạo lực, đối xử tàn bạo vô nhân đạo đối với người bị buộc tội, người phạm tội

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Trong Bộ luật Hồng Đức, hệ thống các hình phạt đều là những hình phạt mang tính bạo lực, trừng phạt thân thể, gây ra tổn thương, đau đớn về mặt thể xác cho người bị buộc tội, người phạm tội. Tra khảo bằng roi, trượng cũng được coi là

một trong những cách thức, nghiệp vụ điều tra. Tất cả những biện pháp đó hiện nay đều bị coi là hành vi ngược đãi, bạo lực, trái pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế nó vẫn diễn ra. Nhiều vụ việc thậm chí còn gây ra dư luận xã hội ồn ào, gây hậu quả nghiêm trọng khi làm cho người bị buộc tội, người phạm tội bị thương, bị chết, gây bức xúc trong xã hội. Có nhiều vụ án oan xuất phát từ việc người bị buộc tội không thể chịu được các hành vi bạo lực của một số cá nhân thi hành công vụ gây ra nên đã buộc phải nhận tội. Những hành vi ngược đãi, sử dụng bạo lực, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo với người bị buộc tội, người phạm tội đến từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng thường gây ra bức xúc trong dư luận, làm mất lòng tin của người dân, đi ngược lại bản chất nhân đạo và khoan hồng của pháp luật tiến bộ đồng thời chính nó có thể là yếu tố làm sai lệch sự thật của vụ án. Chính vì vậy, pháp luật hiện nay cần phải nghiêm cấm những hành vi này để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị buộc tội, người phạm tội.

Bảo vệ quyền lợi của nhóm xã hội yếu thế trong Bộ luật Hồng Đức và giá trị kế thừa - 15

Thứ tư: Áp dụng các nguyên tắc có lợi, nhân đạo, khoan hồng cho người bị kết tội, người phạm tội

Bộ luật Hồng Đức đã có những quy định rất tiến bộ khi áp dụng những nguyên tắc có lợi cho người bị nghi ngờ là có tội, người phạm tội là phụ nữ, người già, trẻ em. Theo Bộ luật Hồng Đức, khi một người bị nghi ngờ là phạm tội mà không chứng minh được thì người đó được giảm nhẹ tội so với tội đang bị nghi ngờ. Pháp luật hiện đại không áp dụng như thế mà áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội. Nguyên tắc này chỉ rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội. Nếu bên buộc tội không chứng minh được một người nào đó phạm tội thì phải tuyên bố người đó vô tội. Điều này buộc bên buộc tội phải vận dụng tất cả các biện pháp để chứng minh buộc tội của mình là có căn cứ. Tuy nhiên không thể dùng các biện pháp xâm phạm đến quyền con người như bức cung, nhục hình, bắt nhầm hơn bỏ sót…mà mọi hoạt động chứng minh và thu thập chứng cứ vẫn cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật. Việc áp dụng những nguyên tắc mang tính nhân đạo, khoan hồng được thể hiện trên một bình diện rất lớn bao hàm cả những vấn đề về trách nhiệm hình sự, khái niệm tội phạm, phân loại tội phạm, tuổi chịu trách nhiệm hình sự, người phạm tội tự thú, thật thà khai báo, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải,


110

tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, trách nhiệm của người thi hành công vụ…chứ không đơn giản chỉ là giảm nhẹ hình phạt như trong pháp luật thời Lê sơ. Những hình phạt được áp dụng không nhằm gây đau đớn về thể xác và hạ thấp nhân phẩm con người như quy định của Bộ luật Hồng Đức là sử dụng các hình phạt như đánh roi, đánh trượng, chặt đầu, bắt đeo gông, xiềng chân, bắt thích chữ vào mặt…Trong quá trình cải tạo, giáo dục người phạm tội nguyên tắc nhân đạo được thể hiện ở việc tạo điều kiện cho họ cải tạo tốt, trở về hòa nhập cộng đồng, làm ăn lương thiện, có cuộc sống ổn định để tránh việc tái phạm. Như vậy, nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng đã được thể hiện rất đa dạng và xem xét dưới nhiều góc độ, khía cạnh với bản chất khác so với pháp luật thời Lê sơ.

Đối với người phạm tội là phụ nữ, người già, trẻ em là những đối tượng cần có cơ chế bảo vệ đặc biệt, pháp luật hiện nay cũng cho họ được hưởng sự khoan hồng so với các đối tượng khác. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trước tòa và bảo đảm quyền xét xử công bằng, là nguyên tắc của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đối với nhóm đối tượng yếu thế cần có sự bảo vệ đặc biệt, cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng. Ví dụ như với người chưa thành niên pháp luật phải có quy chế riêng như: hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam; quy định việc có mặt của người đại diện trong quá trình tố tụng hình sự; quy định thành phần Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân là cán bộ Đoàn, giáo viên…pháp luật hiện nay cần phải phát triển theo xu hướng nhân đạo, tiến bộ hơn như: không áp dụng hình phạt tử hình, chung thân đối với người chưa thành niên, phụ nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử; giảm các tội có áp dụng hình phạt tử hình, sửa đổi các quy định về hình phạt tử hình cho chặt chẽ hơn; hạn chế khả năng áp dụng hình phạt tù và mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không giam giữ; điều chỉnh các chế định loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn giảm hình phạt, xóa án tích; loại bỏ một số hành vi phạm tội không còn tính nguy hiểm cho xã hội; bổ sung chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện…Tuy vậy, khi áp dụng các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự với nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng vẫn cần phải cân nhắc kỹ để vừa đảm

bảo yêu cầu bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, phòng ngừa tội phạm đồng thời cũng đảm bảo tính giáo dục, răn đe của pháp luật.

Thứ năm: Nâng cao khả năng tự bảo vệ của người bị buộc tội, người phạm tội

Bảo vệ người bị buộc tội, người phạm tội còn được thể hiện ở việc không làm oan người vô tội. Trước hết cần nâng cao nhận thức về quyền của người bị buộc tội, người phạm tội cho những người thi hành công vụ để tránh sự xâm phạm quyền con người từ phía công quyền. Đối với người bị buộc tội, người phạm tội, bên cạnh việc nâng cao nhận thức về quyền của bản thân cần nâng cao khả năng tự bảo vệ bằng việc tạo điều kiện để họ thực hiện quyền bào chữa của mình, đơn giản hóa các thủ tục tố tụng, tăng cường khả năng tiếp cận công lý. Đặc biệt là phải phát huy vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp. Đây chính là biện pháp quan trọng để làm giảm oan sai, áp dụng pháp luật tùy tiện, lạm quyền từ phía các cơ quan nhà nước.

3.4.5. Kế thừa những giá trị của Bộ luật Hồng Đức trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật trong giai đoạn hiện nay

Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm đáng kể và lâu dài đến khả năng thực hiện các hoạt động, sinh hoạt hàng ngày làm suy giảm thể chất và tinh thần của cá nhân, ảnh hưởng đến đời sống bình thường của người đó. Khuyết tật có thể là khiếm khuyết kéo dài hoặc có thể kéo dài hơn 12 tháng. Dưới 12 tháng không được coi là khuyết tật, trừ phi là bị tái đi tái lại. Khuyết tật có thể là do bẩm sinh hoặc do yếu tố khác đem lại. Ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ người khuyết tật khá cao do điều kiện kinh tế - xã hội còn chưa phát triển, sự chăm sóc y tế đối với bà mẹ mang thai và phát hiện sớm dị tật bào thai còn chưa được quan tâm nhiều nhất là ở những vùng nông thôn và miền núi. Không những thế Việt Nam phải trải qua chiến tranh với sự tàn phá của bom đạn và của chất độc dioxin dẫn đến số lượng người là nạn nhân của chiến tranh rất đông. Không chỉ là những cựu binh và dân thường bị bom đạn, tra tấn mà còn có nhiều người bị phơi nhiễm với chất độc dioxin dẫn đến những biến chứng cho cơ thể và cho thế hệ sau. Bản thân những người khuyết tật do bị kỳ thị, định kiến, sức khỏe yếu nên gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, khó khăn khi tiếp cận với các dịch vụ xã hội, khó khăn khi tìm kiếm cơ hội hay việc làm…Những khó khăn trong học tập,

việc làm, hôn nhân và sự kỳ thị của xã hội tác động qua lại lẫn nhau, là nguyên nhân và kết quả của nhau tạo thành một vòng luẩn quẩn làm cho người khuyết tật không thể phát huy hết khả năng của mình để sống có ích cho gia đình và xã hội. Đặc biệt là sự kỳ thị, nó là rào cản vô hình làm cho người khuyết tật không thể hòa nhập vào cuộc sống. Chính vì vậy nhà nước cần có những cơ chế, chính sách đặc biệt dành cho người khuyết tật để giúp họ hòa nhập với cộng đồng, sống có ích cho gia đình và xã hội. Những quy định của pháp luật đã tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Tuy vậy, trên thực tế người khuyết tật vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn, trở ngại và kỳ thị, do đó pháp luật cần nghiên cứu để hoàn thiện các quy định nhằm bảo đảm cho người khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền lợi của mình, bảo vệ họ trước sự xâm hại, vi phạm đến từ phía các chủ thể khác trong xã hội bằng các giải pháp như:

Thứ nhất: Hoàn thiện luật pháp về quyền của người khuyết tật.

Bộ luật Hồng Đức đã quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật bằng các quy định như cho họ được hưởng quy định về miễn giảm trách nhiệm hình sự, chuộc tội bằng tiền, không bị tra khảo, đánh đập, đươc chính quyền địa phương chăm lo đời sống…những quy định đó đã thể hiện nét nhân văn, tiến bộ của pháp luật. Tuy vậy, pháp luật cũng mới chỉ coi người khuyết tật là một chủ thể cần thiết được bảo vệ chứ chưa có quy định để giúp người khuyết tật được thực sự chủ động hòa nhập với cộng đồng và tự bảo vệ các quyền lợi của mình.

Hiện nay nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội về người khuyết tật nhằm đảm bảo quyền lợi cho họ, tạo điều kiện cho người khuyết tật có thể chủ động hòa nhập vào cộng đồng ở tất cả các lĩnh vực như truyền thông, thể thao, du lịch, lao động, giáo dục đào tạo, tiếp cận an sinh xã hội…Trên thực tế, mặc dù là một trong những quốc gia đầu tiên ký Công ước của Liên hiệp quốc về quyền của người khuyết tật và đang tích cực xem xét phê chuẩn Công ước này Việt Nam vẫn còn thiếu những cơ chế phù hợp để đáp ứng đầy đủ nhu cầu bảo vệ người khuyết tật và tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền của mình. Pháp luật đã có những quy định bảo vệ quyền lợi cho người khuyết

tật nhưng sự phân biệt đối xử và kỳ thị người khuyết tật vẫn còn khá phổ biến nhất là trong lĩnh vực lao động. Cơ chế bảo đảm quyền của người khuyết tật chưa đầy đủ, nhiều khi chỉ ở mức độ hình thức. Chính vì vậy, để người khuyết tật được thực sự bình đẳng về các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của họ để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội nhà nước cần phải hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của người khuyết tật. Việc ban hành quy định đầy đủ về quyền của người khuyết tật không những giúp người khuyết tật tự bảo vệ mình mà còn là căn cứ pháp lý quan trọng để nhà nước bảo vệ quyền lợi cho họ, chống lại sự phân biệt đối xử và xâm hại đến quyền của người khuyết tật.

Thứ hai: Tăng cường sự tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xây dựng, thực hiện, giám sát pháp luật và chính sách về chính mình.

Quyền của người khuyết tật chỉ có thể được thực hiện một cách hiệu quả khi có sự chủ động tham gia của chính họ. Chỉ khi người khuyết tật được tham gia vào từng bước của quá trình xây dựng, thực hiện, giám sát pháp luật và các chính sách bảo vệ quyền lợi của chính mình thì việc xây dựng pháp luật về người khuyết tật mới đem lại hiệu quả thực tế.

Thứ ba: Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử, lạm dụng, bóc lột, ngược đãi người khuyết tật

Do những tổn thương về thể chất và tinh thần, người khuyết tật thiếu khả năng tiếp cận đối với các hoạt động giáo dục đào tạo, dịch vụ y tế, vui chơi giải trí, văn hóa, thể thao, thông tin liên lạc…do đó họ rất dễ trở thành nạn nhân của sự phân biệt đối xử, bị lạm dụng, bóc lột và đối xử phi nhân đạo. Bản thân họ cũng rất khó khăn khi tự bảo vệ quyền lợi của mình. Để bảo đảm quyền của họ, pháp luật cần có những điều khoản cụ thể để ngăn chặn sự phân biệt đối xử trong giáo dục, nhà ở, y tế, tiếp cận dịch vụ, đi lại và tất cả những lĩnh vực khác của cuộc sống mà trước hết là phải nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử với người khuyết tật. Nhà nước cũng phải tạo điều kiện để người khuyết tật được thụ hưởng tất cả các dịch vụ xã hội như giao thông, học tập, khám chữa bệnh và thông tin liên lạc. Nghiêm cấm và có chế tài xử lý các hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật. Xử phạt nặng đối với những hành vi lạm dụng,

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 29/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí