Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển du lịch sinh thái bền vững ở vườn quốc gia Ba Vì và vùng đệm trong nền kinh tế thị trường - 13


đó tăng sự hấp dẫn đối với khách du lịch. Các bản làng dân tộc Dao hay Mường phải hội tụ được những đặc trưng văn hoá, sinh thái và môi trường sinh thái để khách du lịch tham quan, tìm hiểu. Các hoạt động hỗ trợ của Vườn có thể dưới hình thức đào tạo, chuyển giao công nghệ hoặc đầu tư xây dựng mô hình. Tuy vậy, yếu tố quyết định sự thành công ở đây vẫn là Vườn phải huy

động được nguồn lực của địa phương và được sự ủng hộ cao của người dân (bảng 4.10).

Bảng 4.10. Phân tích SWOT giải pháp xây dựng mô hình du lịch sinh thái cộng đồng

Thuận lợi

Khó khăn

Cơ hội

Thách thức

- Vườn quốc gia

- Trình độ dân trí

- Trong thời gian

- Chịu sự cạnh

Ba Vì, các công ty

thấp.

tới, du lịch phát

tranh quyết liệt

du lịch hỗ trợ về

- Nhận thức cảu

triển mạnh mẽ,

trên thị trường du

vốn, nhân lực.

nhiều người dân

lượng khách du

lịch

- Chính quyền địa

còn hạn chế

lịch tăng cùng với

- Người dân chưa

phương ủng hộ

- Hạ tầng cơ sở du

sự mở cửa hội

có thói quen, kinh

- Việt Nam gia

lịch yếu kém

nhập và đời sống

nghiệm làm du

nhập WTO, lượng

- Sự hỗ trợ của

gia tăng.

lịch cộng đồng

khách du lịch nước

vườn quốc gia Ba

- Nguồn vốn đầu

- Hạ tầng cơ sở

ngoài sẽ tăng

Vì, công ty du lịch

tư trong nước và

yếu kém đòi hỏi

- Người dân các xã

đối với các xã

ngoài nước tăng

đầu tư lớn

vùng đệm có

chưa đạt hiệu quả

nhanh.

- Du lịch có nguy

truyền thống đoàn

cao

- Các công ty nước

cơ gây ô nhiễm

kết, sinh hoạt cộng

- Thiếu cơ chế,

ngoài vào Việt

môi trường, tệ nạn

đồng

chính sách cần

nam để đầu tư vào

xã hội phát triển ở

- Các xã vùng đệm

thiết.

lĩnh vực du lịch.

các xã vùng đệm.

có nền văn hoá đặc

- Năng lực tổ chức,



sắc chưa được khai

quản lý của cán bộ



thác.

xã hạn chế .




Thiếu vốn đầu tư



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển du lịch sinh thái bền vững ở vườn quốc gia Ba Vì và vùng đệm trong nền kinh tế thị trường - 13

Nguồn: Thảo luận nhóm nam, nữ thôn Mồ Đôi, xã Vân Hoà, Ba Vì, Hà Tây, ngày 13 tháng 2 năm 2006.


4.3.3.4. Đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng

Mặc dù trong những năm qua hệ thống cơ sở hạ tầng của Vườn đã được xây dựng, cải tạo nâng cấp. Một số tuyến đường mới được xây dựng nối liền các điểm du lịch với nhau. Các doanh nghiệp còn xây dựng nhiều con đường du lịch trong rừng, tạo cơ hội để du khách tham quan trong rừng. Các doanh nghiệp cũng xây dựng nhiều khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở dịch vụ ăn uống, bể bơi, sân khấu biểu diễn nghệ thuật, hội trường phục vụ hội nghị, hội thảo. Hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước sạch cũng được cải thiện. Tuy nhiên, hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn manh mún, chưa đáp ứng

được nhu cầu của khách du lịch và tốc độ phát triển du lịch trong những năm tới. Để du lịch sinh thái phát triển mạnh mẽ, cần tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài vốn ngân sách của Vườn, cần huy động nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài thông qua các dự án kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực du lịch. Nguồn vốn đầu tư tập trung xây dựng đồng bộ các công trình phục vụ du lịch, bảo tồn

đa dạng sinh học.

4.3.3.5. Xây dựng mô hình quản lý hoạt động du lịch

Đến nay, vườn quốc gia Ba Vì vẫn chưa có một mô hình quản lý du lịch kết hợp với bảo tồn đa dạng sinh học phù hợp. Vì vậy, nghiên cứu xây dựng một mô hình quản lý hoạt động du lịch trên cơ sở bảo vệ môi trường sinh thái và phù hợp với điều kiện phát triển mới của Vườn, có hiệu quả cao, hạn chế

đến mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái rừng hiện có là vấn đề bức xúc. Vườn cần tổ chức xây dựng mô hình quản lý du lịch sinh thái và áp dụng cho các doanh nghiệp du lịch đang hoạt động trong lâm phần của Vườn.

Đồng thời Vườn cần xây dựng quy chế quản lý bảo vệ rừng, phát triển vốn rừng và bảo vệ môi trường sinh thái thống nhất làm cơ sở cho các doanh nghiệp thực hiện.

Quy định bắt buộc các doanh nghiệp du lịch phải áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TQM (hệ thống quản lý chất lượng toàn


diện) nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Đây được coi là tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của các doanh nghiệp và là cơ sở để khách du lịch lựa chọn sản phẩm, dịch vụ tốt nhất cho mình.

4.3.3.6. Tăng cường bảo vệ tài nguyên rừng và môi trường sinh thái

Muốn bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển du lịch sinh thái cả về quy mô và chất lượng cần phải tăng cường bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Bảo vệ tài nguyên và bảo vệ môi trường bao gồm: bảo vệ môi trường và bảo vệ tài nguyên rừng. Bảo vệ môi trường gồm bảo vệ nguồn nước không để bị ô nhiễm, bảo vệ môi trường không khí, bảo vệ môi trường sinh thái, thu gom rác thải, xử lý nước thải.

Nguồn nước ở vườn quốc gia Ba Vì không chỉ cung cấp cho Vườn mà cho cả vùng nên việc bảo vệ các nguồn nước ở đây trong sạch có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nguồn nước cung cấp cho Vườn và cho các địa phương trong vùng chủ yếu là nước mưa và nước suối trong khu vực từ cốt 400 đến cốt 600. Do rừng đầu nguồn được bảo vệ giữ gìn hầu như nguyên vẹn nên ở khu vực này thường xuyên có nước. Nguồn nước dồi dào đã tạo điều kiện cho sinh hoạt của Vườn và du lịch phát triển. Việc phát triển du lịch trong những năm gần

đây trong Vườn tuy không làm ảnh hưởng đến nguồn nước, không gây ra tình trạng thiếu nước cục bộ nhưng có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng nguồn nước. một số đoạn suối, hồ thường xuyên có đông khách du lịch tắm, nước bị dơ bẩn. Nguồn nước thải của các doanh nghiệp và du khách cũng là một tác nhân làm cho nguồn nước có thể bị ảnh hưởng không tốt. Do vậy, vườn quốc gia Ba Vì cũng sớm có biện pháp tuyên truyền, giáo dục cho cộng đồng ý thức bảo vệ giữ gìn nguồn nước trong sạch. Các doanh nghiệp du lịch cần có biện pháp bảo vệ nguồn nước trong phạm vi doanh nghiệp kinh doanh, đặc biệt không làm ảnh hưởng đến dòng chảy của các suối để nước tiêu thoát dễ dàng.

Đặc biệt, không tạo ra những nơi chứa nước không đảm bảo sự lưu thông của nguồn nước.


Các doanh nghiệp du lịch xây dựng các công trình kiến trúc sẽ làm thay

đổi địa hình vốn có trong vùng, vì vậy các doanh nghiệp cần phải hạn chế tối

đa các hoạt động làm thay đổi địa hình, cần tận dụng địa hình sẵn có để xây dựng công trình, hạn chế việc san, gạt đất tạo mặt bằng xây dựng. Các công trình xây dựng chỉ được san gạt đất khi thật cần thiết. Đối với các khu vực xây dựng trên sườn dốc, khi xây dựng công trình phải làm xây kè chắn đất và có biện pháp chống sụt lở cho các mương thu nước.

Rác thải là một nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường trong Vườn. Rác thải trong Vườn bao gồm rác thải sinh hoạt của công nhân viên của Vườn và các doanh nghiệp du lịch, rác sinh hoạt do khách du lịch mang từ nơi khác

đến, rác thải của những người làm dịch vụ, buôn bán. Ngoài ra, còn một lượng rác thải khá lớn đó là rác thải xây dựng. Các doanh nghiệp xây dựng các công trình đã thải ra một lượng lớn phế liệu xây dựng như gạch, đá, xi măng, gỗ vụn… Đến nay chưa thống kê được khối lượng rác thải trong một ngày nhưng có thể nhận thấy vào mùa du lịch, khách tham quan đến đông và mùa xây dựng thì lượng rác thải ra khá lớn. Những ngày khách du lịch ít thì lượng rác thải ít, chủ yếu là rác sinh hoạt. Tuy nhiên, hiện nay việc quản lý rác thải ở vườn quốc gia Ba Vì vẫn chưa là tốt. Khách du lịch vẫn còn vứt rác một cách tuỳ tiện, gặp đâu vứt đó, vứt xuống suối hoặc vứt vào rừng. Do vậy, rác thải phải được thường xuyên thu gom và đưa về xử lý hợp vệ sinh. Tại các khu vui chơi giải trí, các tuyến đường du lịch cần đặt những thùng đựng rác để khách du lịch có nơi bỏ rác thải. Những thùng rác này cũng được thường xuyên thu dọn và được đưa đến nơi xử lý hợp vệ sinh. Để đảm bảo cho môi trường sạch sẽ, Vườn cần có kế hoạch giám sát môi trường thông qua việc kiểm tra định kỳ các nguồn gây tác động môi trường đặc biệt là kiểm tra việc xử lý nước thải, rác thải của các doanh nghiệp du lịch.

Các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ xây dựng các công trình sẽ làm mất rừng, tiếng ồn xây dựng, hoạt động của du khách ảnh hưởng đến: các loại


động vật trong rừng (làm chúng sợ hãi bỏ nơi cư trú, thay đổi tập tính,...); các loài thực vật (hái hoa, bẻ cành, dẫm đạp, lấy phong lan, ghi khắc tên lên cây gỗ,…). Các nguy cơ ô nhiễm đất, nước, không khí ảnh hưởng tới hệ sinh thái của vườn. Các nhu cầu hưởng thụ thực phẩm và đặc sản, đồ lưu niệm của khách du lịch có ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của Vườn, khuyến khích các hành vi xâm hại đến đa dạng sinh học. Do đó, cần có biện pháp quản lý chặt chẽ quá trình xây dựng các công trình, hạn chế tiếng ồn. Vườn cần hướng dẫn và tuyên truyền nâng cao nhận thức của khách du lịch về bảo vệ môi trường sinh thái.

Vườn cần thiết lập hệ thống mốc giới xác định lâm phần của toàn bộ vườn quốc gia trên tổng diện tích của Vườn. Ranh giới của phân khu bảo vệ nghiêm ngặt cần có các trạm canh gác, còn các diện tích rừng phân bố, phân tán, gần các khu dân cư… tiến hành khoán quản lý bảo vệ cho các hộ gia đình, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.

Xây dựng mới hệ thống chòi canh lửa rừng và hệ thống cấp dự báo cháy rừng, các hệ thống trạm bảo vệ rừng, các thiết bị phương tiện phòng cháy, chữa cháy và sâu bệnh hại rừng. Nguy cơ cháy rừng đặc biệt vào những mùa khô hanh và do những hoạt động du lịch như lửa trại, vì vậy cần có biện pháp ngăn chặn. Các khu vui chơi, giải trí bắt buộc phải tuân thủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Khi tổ chức lửa trại phải có sự giám sát chặt chẽ của các nhân viên.

Xây dựng các bảng nội quy bảo vệ rừng tại các điểm ngã ba đường, những nơi tiếp giáp khu dân cư, nơi cửa rừng, các trạm quản lý bảo vệ nhằm giáo dục cho người dân ý thức, trách nhiệm bảo vệ rừng.

Tại các phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phục hồi sinh thái, cần xây dựng nội quy riêng theo quy chế bảo vệ vườn quốc gia. Nội quy này bao gồm những quy dịnh chủ yếu sau đây:

- Nghiêm cấm mọi hoạt động làm ảnh hưởng đến đời sống tự nhiên của

động thực vật rừng.


- Nghiêm cấm chặt cây, đốt phá các loại thực vật rừng.

- Nghiêm cấm mọi hoạt động làm thay đổi thành phần, cấu trúc của khu rừng, phải tuân thủ mọi quy chế bảo vệ rừng quốc gia.

- Nghiêm cấm dân cư canh tác trong phạm vi ranh giới vườn.

- Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc nội quy của vườn quốc gia về các hoạt

động du lịch, về nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác đã được quy định.

- Khách tham quan Vườn phải theo sự hướng dẫn của cán bộ quản lý, ra vào phân khu nghiêm ngặt phải được phép, tuyệt đối cấm các hoạt động ảnh hưởng đến cảnh quan và động thực vật rừng.

Xây dựng nội quy cho các khu du lịch sinh thái, gồm các quy định sau đây:

- Khách du lịch được phép tham quan du lịch, vui chơi giải trí, cắm trại trên một số địa điểm đã được Vườn quy định.

- Được phép trồng rừng bằng các loại cây bản địa để phủ xanh đất và tăng vẻ đẹp của các cảnh quan của Vườn.

- Nghiêm cấm đốt lửa, chăn thả gia súc.

* Tổ chức bảo vệ rừng

- Lực lượng nòng cốt làm công tác bảo vệ rừng là đội kiểm lâm của Vườn đóng tại các trạm. Các nhân viên kiểm lâm của Vườn không chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ rừng mà còn hướng dẫn, giới thiệu với khách du lịch về Vườn và trách nhiệm bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sinh thái. Vườn cần bố trí các nhân viên kiểm lâm tại các điểm tham quan tập trung đông khách du lịch. Các trạm kiểm lâm có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, vận động các tổ chức xã hội, các Già Làng, Trưởng Bản cùng tham gia, thực hiện phương châm toàn dân tham gia bảo vệ rừng và trồng rừng. Quyền lợi của người tham gia phải được quy định cụ thể và gắn với kết quả công việc. Vườn phải cam kết đảm bảo quyền lợi cho những người

Tổ chức các lớp tuyên truyền vận động phổ biến nội quy bảo vệ rừng,

để từng thôn bản hiểu rõ ý nghĩa, mục đích và lợi ích của việc bảo tồn đa dạng sinh học, có hình thức khen thưởng rõ ràng.


- Xây dựng hệ thống đường băng cản lửa, xây dựng đường băng xanh bằng các loài cây thường xanh, sinh trưởng nhanh, có khả năng chống chịu lửa rừng.

- Tích cực tuyên truyền nâng cao dân trí trong việc bảo vệ, phát triển môi trường sinh thái Vườn quốc gia Ba Vì đối với cộng đồng cư dân địa phương và khách du lịch.

4.3.3.7. Đảm bảo công bằng về lợi ích kinh tế giữa địa phương, vườn quốc gia Ba Vì và các doanh nghiệp du lịch.

Sự phát triển bền vững chỉ được thực hiện trên cơ sở đảm bảo sự công bằng về lợi ích và tính trách nhiệm cao của các bên liên quan. Vì vậy, vườn quốc gia Ba Vì cần thiết lập sự bình đẳng về lợi ích giữa Vườn, các doanh nghiệp du lịch và địa phương vùng đệm. Lợi ích của các bên phải gắn với trách nhiệm trong việc bảo tồn đa dạng sinh học được thực hiện theo nguyên tắc minh bạch, công khai và thưởng phạt nghiêm minh. Cần có quy định tỷ lệ trích lợi nhuận du lịch sinh thái dùng cho việc bảo tồn đa dạng sinh học của Vườn. Các doanh nghiệp du lịch phải đóng góp vào bảo tồn đa dạng sinh học.

4.3.3.8. Đào tạo nguồn nhân lực cho bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển du lịch sinh thái bền vững.

Nguồn nhân lực có chất lượng cao là một yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự phát triển du lịch và bảo tồn đa dạng sinh học ở vườn quốc gia Ba Vì. Vườn cần phối hợp với các doanh nghiệp du lịch, các địa phương mở các lớp tập huấn trang bị kiến thức về du lịch sinh thái và đa dạng sinh học. Các lớp tập huấn được tổ chức tại Vườn và tại các xã vùng đệm. Đối tượng tham gia tập huấn là cán bộ, nhân viên của Vườn, của các doanh nghiệp du lịch, cán bộ và người dân các xã vùng đệm. Nội dung tập huấn cần phù hợp với trình độ nhận thức, vị trí của các đối tượng tham gia, ngắn gọn, dễ hiểu. Vườn, các doanh nghiệp du lịch và các xã cử người đi đào tạo về bảo tồn đa dạng sinh học cũng như tổ chức các đợt tham quan các mô hình du lịch sinh thái làm tốt việc bảo vệ đa dạng sinh học.


4.3.3.9. Phát triển kinh tế, xã hội vùng đệm

Phát triển kinh tế - xã hội các xã vùng đệm là một giải pháp lớn, mang tính lâu dài nhằm thực hiện mục tiêu phát triển du lịch sinh thái bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học. Các xã vùng đệm cần tập trung nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm cho người dân đối với sự phát triển của vườn quốc gia Ba Vì, coi Vườn là một bộ phận không tách rời trong quá trình phát triển. Ngoài việc phát triển các chương trình xã hội như xoá đói giảm nghèo, giáo dục, chăm sóc sức khỏe thì việc nâng cao thu nhập và mức sống cho người dân là vấn đề có ý nghĩa quan trọng để bảo tồn đa dạng sinh học. Hiện nay, thu nhập của người dân các xã vùng đệm còn thấp, điều này đã dẫn đến một số người tìm kiếm thu nhập bằng cách vào rừng khai thác tài nguyên sinh học. Vì vậy, nâng cao thu nhập bền vững cho người dân vùng đệm là một vấn đề bức bách nhằm bảo tồn đa dạng sinh học ở vườn quốc gia Ba Vì.

Căn cứ vào điều kiện cụ thể của các xã vùng đệm thì phương hướng nâng cao thu nhập cho người dân là: Nâng cao giá trị kinh tế trên cơ sở khai thác hợp lý nguồn tài nguyên đất đai và lao động trên, phát triển những cây con có giá trị kinh tế phục vụ cho các khu du lịch và thị trường, đa dạng hoá ngành nghề trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, giảm tỷ trọng nông nghiệp và nâng cao tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp trong đó chú trọng phát triển du lịch và dịch vụ, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp.

Các giải pháp nâng cao thu nhập cho người dân vùng đệm là:

Phát triển sản xuất lúa nước với trình độ thâm canh cao hơn.

Phát triển mô hình nông lâm kết hợp.

Phát triển vườn rừng, trang trại kết hợp du lịch sinh thái.

Phát triển nghề chăn nuôi gia súc, đặc sản phục vụ khách du lịch và thị trường.

Khuyến khích phát triển du lịch cộng đồng.

Mở rộng các hoạt động dịch vụ, nhất là các loại hình dịch vụ du lịch như ăn uống, khách sạn, nhà nghỉ.

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 31/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí