Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam - 12

khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước các hành vi xâm phạm. Thay vào đó, họ yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính đối với các hành vi xâm phạm để đảm bảo việc chấm dứt kịp thời, nhanh chóng các hành vi xâm phạm đó.

- Thứ hai, năng lực giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ chưa đáp ứng được yêu cầu

Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là lĩnh vực pháp luật còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam. Mặc dù trong thời gian qua ngành Tòa án cũng đã có sự quan tâm đúng mức đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về pháp luật sở hữu trí tuệ cho đội ngũ cán bộ Thẩm phán, song do tính phức tạp và đa dạng của các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ nên một số Thẩm phán vẫn gặp không ít khó khăn trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ vì chưa đủ trình độ chuyên sâu về sở hữu trí tuệ.

Vì vậy, trong việc giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ thì kết quả trưng cầu giám định hoặc kết luận các yếu tố vi phạm của cơ quan có thẩm quyền về việc có hay không có hành vi xâm phạm quyền quyền sở hữu trí tuệ có giá trị quan trọng để Tòa án dùng làm căn cứ giải quyết các vụ án về sở hữu trí tuệ được chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.

Bên cạnh đó, việc nhìn nhận, đánh giá về các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của các cơ quan chức năng nhiều khi không thống nhất được quan điểm. Chính vì thế đã dẫn tới nhiều trường hợp, sau khi có phán quyết của Tòa án cấp phúc thẩm đối với vụ án rồi nhưng các bên đương sự vẫn viện dẫn các ý kiến đối lập với loại ý kiến được tham khảo để ra phán quyết để tiếp tục khiếu nại, yêu cầu xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, gây ra khiếu kiện kéo dài, ảnh hưởng đến ổn định xã hội.

- Thứ ba, khó khăn trong việc xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra

Trước khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành, hầu như không có văn bản nào quy định về các căn cứ pháp lý để xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Do đó, đại đa số các trường hợp nguyên đơn không chứng minh được thiệt hại của mình hoặc xác định không chính xác mức bồi thường thiệt hại và không được Tòa án chấp nhận.

Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành đã bổ sung các quy định quan trọng về nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 204) và căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 205), tuy nhiên do tính chất đặc thù của loại tài sản “quyền sở hữu trí tuệ” nên nhiều trường hợp nguyên đơn không chứng minh được thiệt hại hoặc xác định không đầy đủ về những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế (có thể nhiều hơn hoặc ít hơn thiệt hại thực tế xảy ra). Các căn cứ để xác định thiệt hại về vật chất như mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại hoặc các thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ mà trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này là cho người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ trên thực tế là rất khó để xác định một cách chính xác và đầy đủ. Do vậy, khi giải quyết những vấn đề này Tòa án đã gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc xác định thiệt hại để có được phán quyết chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.

3.1.3.2. Thực tiễn bảo vệ quyền của người biểu diễn bằng biện pháp hành chính, hình sự

- Đối với biện pháp hành chính

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Các quy định xử phạt hành chính về quyền liên quan được quy định

trong Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ. Nội dung nghị định này có quy định rất cụ thể về các hành vi xâm phạm quyền của người biểu diễn bị xử phạt hành chính và mức phạt đối với từng hành vi. Tuy nhiên, trên thực tế các hành vi xâm phạm quyền của người biểu diễn bị xử phạt hành chính phổ biến thường là một số hành vi như hành vi xâm phạm quyền sao chép cuộc biểu diễn và hành vi xâm phạm quyền phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao cuộc biểu diễn. Các hành vi vi phạm này thường diễn ra trong lĩnh vực âm nhạc và điện ảnh nhất là trong môi trường kỹ thuật số hiện nay.

Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam - 12

Thông thường, vấn đề bản quyền trong lĩnh vực điện ảnh, truyền hình ít được lưu tâm hơn bản quyền âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số. Chính vì vậy mà việc vi phạm trong lĩnh vực này ngày càng trở nên phổ biến. Kéo theo đó là việc xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi vi phạm này ngày càng nhiều. Theo thống kê của luật sư Phan Vũ Tuấn, Chánh Văn phòng Hội Sở hữu trí tuệ TP. Hồ Chí Minh, hiện có trên 180 trang mạng có đăng tải phim (trong đó có phim của điện ảnh Hoa Kỳ). Tuy nhiên, trong một lần trao đổi với đại diện Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ - MPA, luật sư Tuấn cho biết MPA chưa cung cấp bản quyền phim cho bất cứ trang mạng nào của Việt Nam. Trong năm 2013, Hiệp hội Điện ảnh Mỹ đã gửi đơn đến Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm bản quyền đối với các tác phẩm điện ảnh của MPA tại ba trang mạng: http://phim47.com/; http://v1vn.com/ và http://pub.vn/. Tuy nhiên, sau khi thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vào cuộc, yêu cầu chủ ba trang mạng trên dỡ bỏ ngay các bản sao tác phẩm điện ảnh xử lý vi phạm hành chính thì các trang mạng này đã đổi hoặc giữ tên miền như cũ và tiếp tục vi phạm. Cụ thể như trang mạng http://phim47.com/ đã đổi thành phimhh.com, hai trang còn lại vẫn đăng tải những phim mới nhất chưa chiếu trên truyền hình hoặc rạp. Không chỉ đối với

phim nước ngoài, tình trạng phân phối các tác phẩm điện ảnh đến công chúng qua môi trường kỹ thuật số mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu, không trả tiền tác quyền diễn ra phổ biến với cả phim trong nước thậm chí là đối với cả những phim chưa phát hành. Công ty Cổ phần phim Thiên Ngân là một trong những hãng phim luôn có đội ngũ nhân viên chú ý quan sát để tránh việc quay phim, chụp ảnh phim khi trình chiếu phim ngoài rạp. Không những thế, công ty này còn có đội ngũ riêng chuyên theo dõi trên mạng để phát hiện các trang mạng vi phạm để bắt buộc gỡ phim khỏi trang mạng sau đó họ sẽ thông báo ngay trang mạng vi phạm để bắt buộc gỡ phim khỏi trang mạng. Tuy chặt chẽ là vậy nhưng bản nháp bộ phim Bụi đời Chợ Lớn của hãng phim Thiên Ngân vẫn bị tuồn ra thị trường băng đĩa lậu và trên mạng. Hay trước đó, bộ phim Cánh đồng bất tận, chưa công chiếu ra rạp đã có bản lậu ở thị trường băng đĩa lậu và Internet. Và cả hai trường hợp này nhà sản xuất, phát hành vẫn chưa tìm ra được thủ phạm để xử lý.

Không chỉ đối với lĩnh vực điện ảnh, tình trạng sao chép, kinh doanh băng đĩa mà không được phép của chủ sở hữu trong lĩnh vực âm nhạc cũng diễn tràn lan trên thị trường. Do giá thành của một chiếc băng đĩa lậu thường chỉ bằng một phần mười (1/10) so với giá thành của băng đĩa gốc nên luôn thu hút được người tiêu dùng. Bên cạnh đó, việc kinh doanh, buôn bán băng đĩa lậu đòi hỏi ít vốn mà tiền lời thu được cũng khá nên mặc dù biết là vi phạm pháp luật song nhiều người vì miếng cơm manh áo vẫn bất chấp, làm liều. Chính vì vậy, tuy các cơ quan chức năng đã xử lý hành chính rất nhiều trường hợp vi phạm song tình trạng sản xuất, kinh doanh băng đĩa lậu vẫn không hề giảm đi. Theo ông Trần Quang Toại, Phó Giám đốc Sở Văn hóa – thể thao và du lịch tỉnh Đồng Nai thì thời gian qua, thanh tra ngành văn hóa trong tỉnh đã nỗ lực rất lớn nhằm chấn chỉnh tình trạng băng đĩa lậu tràn lan. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất, kinh doanh băng đĩa lậu đang diễn biến phức tạp với

nguồn cung ứng dồi dào cùng với hệ thống phân phối sản phẩm bằng nhiều hình thức đa dạng. Lực lượng chức năng dù cố gắng nhưng cũng chỉ có thể kiểm tra, giám sát tại các điểm bán cố định, còn những điểm bán di động thì hầu như rất ít và rất khó để kiểm tra. Trước tình hình này, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử phạt hành chính tịch thu sản phẩm lậu của các cá nhân, đơn vị vi phạm, sở đang kết hợp cùng các cơ quan chức năng báo chí thực hiện công tác tuyên truyền nhằm từng bước nâng cao ý thức của người tiêu dùng trong sử dụng sản phẩm lậu, tránh tiếp tay cho các cơ sở, đối tượng làm ăn bất chính.

- Đối với biện pháp hình sự

Trước khi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 ra đời Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa có quy định về Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự ra đời đã quy định một số hành vi trước đây không bị coi là tội phạm, không được quy định trong Bộ luật Hình sự thì nay đã bị coi là tội phạm trong đó có Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 và đến nay luật này mới có hiệu lực 4 năm tức là hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan mới được coi là tội phạm 4 năm trở lại đây. Có lẽ vì vậy mà hiện nay chưa có một sự thống kê chính thức nào từ phía các cơ quan có thẩm quyền về số lượng vụ việc bị xử lý hình sự đối với Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Vì lý do đó nên tác giả chưa thể có sự đánh giá nào về hiệu quả áp dụng biện pháp hình sự trong việc xử lý các hành xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.

3.1.3.3. Thực tiễn bảo vệ quyền của người biểu diễn bằng biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ

Trong bối cảnh gia tăng hoạt động xuất nhập khẩu và xuất hiện ngày

càng nhiều thủ đoạn vi phạm quyền sở hữu trí tuệ qua biên giới, Hải quan Việt Nam đang đứng trước những thách thức trong thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Theo đánh giá của Tổng cục Hải quan vào năm 2006 cho thấy, hiện chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu về sở hữu trí tuệ để cập nhật thông tin, phản ánh thông lệ quốc tế về kiểm soát biên giới. Hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng đa dạng, khó phân biệt, hoạt động buôn lậu, buôn bán hàng giả, hàng vi phạm nhãn hiệu diễn ra ngày càng phức tạp và tinh vi trong khi đó cơ quan Hải quan đang chịu áp lực phải đẩy mạnh cải cách thủ tục, đơn giản hóa thủ tục thông quan. Bên cạnh đó việc kiểm soát của hải quan thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đảm bảo vừa quản lý hiệu quả vừa tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hợp pháp cũng là thách thức lớn đối với hải quan trong thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi đó, trình độ nhận thức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức hải quan về tầm quan trọng của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn thấp. Hầu hết cán bộ công chức đều có kiến thức hạn chế về việc phát hiện hành vi xuất nhập khẩu hàng hóa có vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, phân biệt hàng thật với hàng giả…

Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nhưng toàn ngành Hải quan vẫn luôn cố gắng trong mọi hoạt động đặc biệt là trong công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Tuy không có số liệu phản ánh hoạt động của toàn ngành trong công tác này nhưng theo thông tin thu được trên website baodienbienphu.info.vn thì năm 2013 Cục Hải quan Điện Biên phối hợp với các lực lượng chức năng phát hiện, bắt giữ và xử lý 28 vụ vi phạm nói chung trong đó xử lý hành chính 17 vụ và tịch thu 113 đĩa ghi hình trái phép. Trong 5 tháng đầu năm 2014, lực lượng Hải quan Điện Biên đã tịch thu và tiêu hủy 104 đĩa CD không rõ nguồn gốc, phạt hành chính số tiền 500.000 đồng. Nhằm phòng ngừa, đấu tranh hiệu

quả với các hành vi gian lận thương mại, buôn bán ma túy qua biên giới, Cục Hải quan Điện Biên đã chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ lên danh sách các đối tượng thường xuyên tham gia xuất nhập cảnh có dấu hiệu nghi vấn; chủ động phối hợp với các đơn vị chức năng tổ chức tuần tra, kiểm soát trong và ngoài địa bàn; phối hợp với lực lượng an ninh nước bạn tại các cửa khẩu nắm bắt thông tin, kịp thời xử lý.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền của người biểu diễn

Pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện tại đã phần nào đáp ứng được vấn đề bảo hộ quyền liên quan nói chung và bảo hộ quyền của người biểu diễn nói riêng. Tuy nhiên, để các quy định của pháp luật thực sự đi vào đời sống, người biểu diễn thực sự được thụ hưởng các quyền và lợi ích chính đáng thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật sao cho đảm bảo tốt nhất các quyền và lợi ích này của người biểu diễn luôn là vấn đề cần thiết. Sau quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả xin đưa ra một vài kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền của người biểu diễn bao gồm:

- Thứ nhất, tác giả xin kiến nghị đối với quy định về thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn trong luật Sở hữu trí tuệ. Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, thời hạn bảo hộ quyền liên quan của người biểu diễn là năm mươi năm tính từ năm tiếp theo cuộc biểu diễn được định hình. Quyền của người biểu diễn được bảo hộ bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản của người biểu diễn. Việc quy định thời hạn bảo hộ chung là năm mươi năm cho cả quyền nhân thân và quyền tài sản của người biểu diễn là chưa thực sự phù hợp với thực tiễn đời sống và chưa thực sự bảo vệ tốt nhất quyền của người biểu diễn. Trong mối quan hệ với quyền tác giả, quyền liên quan có mối quan hệ mật thiết, luôn tồn tại song song với quyền tác giả. Quyền nhân thân trong quyền liên quan về bản chất cũng tương tự như quyền nhân thân

trong quyền tác giả. Tuy nhiên, trong quyền tác giả, quyền nhân thân của tác giả được bảo hộ vô thời hạn, trong khi quyền nhân thân của người biểu diễn trong quyền liên quan lại chỉ được bảo hộ có thời hạn là năm mươi năm. Chẳng hạn, cùng là quyền nhân thân, trong quyền tác giả có quyền “đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng” được bảo hộ vô thời hạn, trong khi quyền nhân thân của người biểu diễn là quyền “được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn” lại chỉ được bảo hộ có thời hạn năm mươi năm tính từ năm tiếp theo cuộc biểu diễn được định hình. Việc quy định như vậy đã làm hạn chế bớt quyền của người biểu diễn, dễ dẫn tới các hành vi làm ảnh hưởng tới quyền cũng như uy tín, danh dự của người biểu diễn sau khi kết thúc thời hạn bảo hộ đối với cuộc biểu diễn. Không lẽ mặc nhiên sau năm mươi năm tính từ ngày cuộc biểu diễn được bảo hộ thì người biểu diễn không còn được giới thiệu tên khi phát hành bản ghi âm, ghi hình có chứa cuộc biểu diễn hay phát sóng chương trình phát sóng cuộc biểu diễn và bất cứ ai cũng được quyền xuyên tác, cắt xén, sửa chữa sự vẹn toàn hình tượng của người biểu diễn làm ảnh hưởng tới danh dự và uy tín của người biểu diễn.

Để khắc phục được những hạn chế bất cập như trên, chúng ta cần sửa đổi các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng bảo hộ quyền nhân thân của người biểu diễn giống với bảo hộ quyền nhân thân trong quyền tác giả về mặt thời hạn. Cụ thể, sửa đổi khoản 1 Điều 34 Luật sở hữu trí tuệ theo hướng bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản có sự tách biệt về thời gian. Quyền tài sản vẫn được bảo hộ có thời hạn là năm mươi năm, còn quyền nhân thân có thời hạn bảo hộ là vô thời hạn. Có như vậy mới đảm bảo được tốt nhất quyền của người biểu diễn, cũng phù hợp với bản chất của quyền nhân thân trong quyền sở hữu trí tuệ, góp phần hạn chế các hành vi xâm phạm quyền

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí