Điều Kiện Về Hồ Sơ Và Thủ Tục Đăng Ký Kinh Doanh Về Hồ Sơ Đăng Ký Kinh Doanh

có. Các qui định cấm này tạo cơ hội thuận lợi cho người đầu tư biết được khả năng của mình, và lựa chọn một mô hình kinh doanh phù hợp. Các quy định này cũng xóa bỏ tình trạng mỗi ngành, mỗi cấp tự ý đặt ra các điều kiện kinh doanh đối với ngành, nghề thuộc quyền quản lý của mình.

2.2.3.2. Điều kiện về ngành nghề kinh doanh

Luật Doanh nghiệp 2005 đưa ra một nguyên tắc xuất phát từ tư duy pháp lý đổi mới và bảo đảm quyền tự do kinh doanh rằng: “Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Đây là một nguyên tắc trọng yếu để bảo đảm cho đăng ký kinh doanh được thuận lợi bởi khi đăng ký kinh doanh người đăng ký phải lựa chọn ngành nghề kinh doanh.

Các ngành nghề kinh doanh hình thành do nhu cầu của đời sống xã hội. Vì nhu cầu rất lớn len vào các ngõ ngách của đời sống xã hội, vì thế ngành nghề kinh doanh rất phong phú và đa dạng. Sự đa dạng và phong phú này của là những cơ hội cho việc lựa chọn để hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên có những ngành nghề kinh doanh có thể chống lại trật tự công cộng, chống lại đạo đức xã hội hay có thể gây nguy hại cho xã hội, gây thiệt hại cho người thứ ba, uy hiếm an ninh, quốc phòng hay đòi hỏi một khả năng đặc biệt của người tiến hành kinh doanh… Trong khi đó kinh doanh là hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận. Do đó đôi khi thương nhân bất chấp lợi ích chung của cộng đồng của người khác mà tiến hành các nghề kinh doanh không được phép hoặc không có khả năng, chẳng hạn như tổ chức cá cược, tổ chức thi đấu võ thuật đến chết, mua bán vũ khí quân dụng, sản xuất hóa chất gây hại, nhận tiền gửi và cho vay lấy lãi, khám chữa bệnh... Thực tế khi xã hội có nhu cầu là người ta có thể tiến hành kinh doanh cung cấp các sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng các nhu cầu đó trong khi không phải nhu cầu nào cũng là chính đáng là có lợi cho xã hội và có lợi cho người tiêu dùng. Đôi khi có những nhu cầu làm

băng hoại giá trị đạo đức hoặc ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, ví dụ như mua bán tranh ảnh khỏa thân, phục vụ nhu cầu bạo dâm, mua bán nội tạng người, mua bán thuốc kích dâm…Do vậy tùy vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tập quán, Nhà nước có thể vào từng thời điểm khác nhau đưa ra các quy định cấm hay hạn chế một số ngành nghề kinh doanh.

Luật Doanh nghiệp 2005 có qui định như sau:

“2. Đối với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện theo quy định.

Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác.

3. Cấm hoạt động kinh doanh gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và sức khoẻ của nhân dân, làm huỷ hoại tài nguyên, phá huỷ môi trường.

Chính phủ quy định cụ thể danh mục ngành, nghề kinh doanh bị cấm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

4. Chính phủ định kỳ rà soát, đánh giá lại toàn bộ hoặc một phần các điều kiện kinh doanh; bãi bỏ hoặc kiến nghị bãi bỏ các điều kiện không còn phù hợp; sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi các điều kiện bất hợp lý; ban hành hoặc kiến nghị ban hành điều kiện kinh doanh mới theo yêu cầu quản lý nhà nước.

5. Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp không được quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh” (Điều 7).

Bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong đăng ký kinh doanh của Luật Doanh nghiệp 2005 - 7

Các qui định này cho thấy mấy vấn đề quan trọng sau:

Thứ nhất, ngành nghề kinh doanh được chia thành ba loại: (1) Ngành nghề khi doanh tự do; (2) ngành nghề kinh doanh có điều kiện; và (3) ngành nghề kinh doanh bị cấm. Việc phân loại này rất phù hợp với việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh, những cũng vừa đủ cho việc bảo vệ xã hội và người thứ ba. Về nguyên tắc Nhà nước không ngăn cản bất kỳ ngành nghề kinh doanh nào, tuy nhiên có qui định rõ ràng những ngành nghề bị cấm và hạn chế.

Thứ hai, lý do cấm một số ngành nghề kinh doanh được mô tả cụ thể, rõ ràng và hòa toàn vì lợi ích chung của mọi người.

Thứ ba, những ngành nghề kinh doanh có điều kiện được đặt ra trong từng thời điểm nhất định phụ thuộc vào tình hình và hoàn cảnh cụ thể.

Thứ tư, việc định ra các điều kiện kinh doanh, sửa đổi và bãi bỏ chúng thuộc thẩm quyền của Chính phủ.

Thứ năm, cấm các Bộ, ngành, chính quyền địa phương tự ý định ra các điều kiện kinh doanh.

Không thể nói khác hơn, các qui định này hoàn toàn ủng hộ cho tự do kinh doanh. Khi tiến hành đăng ký kinh doanh phải loại bỏ những ngành nghề bị cấm kinh doanh. Nếu cứ cố kinh doanh trong những ngành nghề bị cấm thì thương nhân bị coi là vi phạm nghiêm trọng pháp luật. Một số hành vi kinh doanh những mặt hàng cấm bị coi là tội phạm, chẳng hạn như: mua bán, vận chuyển, tàng trữ chất ma túy, vũ khí, đạn dược, buôn bán phụ nữ, trẻ em ...

2.2.3.3. Điều kiện về hồ sơ và thủ tục đăng ký kinh doanh Về hồ sơ đăng ký kinh doanh

Luật Doanh nghiệp 2005 qui định: “Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không được yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ khác không quy định tại Luật này” (Điều 15, khoản 3). Các

qui định này có mục đích bảo đảm sự đơn giản thủ tục để người dân dễ tiếp cận khi đi đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên hồ sơ đăng ký kinh doanh theo Đạo luật này vẫn còn phức tạp.

Hồ sơ đăng ký kinh doanh được xem là tài liệu đầy đủ nhất về lý lịch doanh nghiệp, và được Luật Doanh nghiệp 2005 định ra để làm cơ sở để Nhà nước quyết định cho sự ra đời của doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp đã được ra đòi. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định những nội dung cụ thể mà Nhà nước cần quản lý tùy thuộc vào mỗi loại hình doanh nghiệp, ngành nghề, quy mô kinh doanh. Về cơ bản, hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm:

1. Đơn xin đăng ký kinh doanh;

2. Điều lệ (nếu là công ty);

3. Danh sách thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, danh sách thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, danh sách cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần;

4. Bản sao chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu của các sáng lập viên, của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;

5. Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép kinh doanh thì phải có thêm các chứng chỉ, giấy phép do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình đăng ký kinh doanh, người đăng ký không có nghĩa vụ phải xuất trình các tài liệu khác và chứng minh việc làm của mình là đúng hay không đúng pháp luật.

+ Đơn đăng ký kinh doanh: Đây là giấy tờ bắt buộc phải có để thể hiện ý chí của người đệ đơn. Thông qua đơn, người đăng ký kinh doanh hoặc đại diện của họ thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh về việc họ sẽ hoạt động kinh doanh dưới một hình thức nhất định như doanh nghiệp tư nhân,

công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Các nội dung trong đơn phải thể hiện được ý chí của người đệ đơn nhưng cũng phải đảm bảo cho cơ quan đăng ký kinh doanh nắm được các thông tin cần thiết. Thông thường đơn được làm theo mẫu thống nhất của cơ quan đăng ký kinh doanh. Đơn phải có các nội dung chủ yếu sau:

Tên của doanh nghiệp

Tên phải bao gồm hai thành tố như: hình thức của doanh nghiệp và tên riêng của doanh nghiệp. Hình thức của doanh nghiệp được lựa chọn căn cứ vào nhu cầu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tên riêng của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự xác định và đăng ký với cơ quan đăng ký.

Điều 31, 32, 33 và 34 của Luật Doanh nghiệp 2005 có qui định cụ thể về vấn đề tên của doanh nghiệp. Đây là một yếu tố cần thiết để cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét xem có cho đăng ký hay không. Tên của doanh nghiệp không được trùng lặp hay dễ gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp khác đã đăng ký, hoặc vi phạm truyền thống, thuần phong mỹ tục, hay không ghi rõ hình thức doanh nghiệp. Nếu vi phạm các qui định này thì tên sẽ không được chấp nhận và phải được cơ quan đăng ký kinh doanh thông báo cho doanh nghiệp đổi tên khác. Các quy định này một mặt bảo đảm cho quản lý nhà nước. mặt khác bảo đảm cho quyền lợi của bản thân doanh nghiệp đang đăng ký kinh doanh và các doanh nghiệp khác đã đăng ký kinh doanh.

Tên của doanh nghiệp luôn gắn với uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp. Nó có giá trị nhất định đối với những doanh nghiệp làm ăn phát đạt, do đó dễ bị lợi dụng hay sử dụng trái phép. Nhiều khách hàng nhầm lẫn sản phẩm, dịch vụ do sự trùng hay gần gũi của tên gọi của các doanh nghiệp, nhất là trong cùng một ngành nghề kinh doanh. Việc để khách hàng nhầm lẫn và gây ảnh hưởng tới lọi ích của doanh nghiệp xét về một phương diện nào đó là chưa bảo đảm cho tự do kinh doanh.

Có thể nói, việc vi phạm các qui định về tên gọi của doanh nghiệp không chỉ là sự xâm hại đến lợi ích người tiêu dùng, mà còn vi phạm đến lợi ích của doanh nghiệp khác, và còn gây khó khăn trong hoạt động quản lý Nhà nước. Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành đạo luật này quy định những chuẩn mực trong việc đặt tên gọi của doanh nghiệp bởi trong nền kinh tế thị trường có một số lượng rất lớn các doanh nghiệp và ngày càng lớn hơn, đa dạng cả về quy mô, ngành nghề kinh doanh và phong phú cả về hình thức hình doanh nghiệp.

Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp

Việc xác định trụ sở chính của doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với các giao dịch và các quan hệ pháp luật khác. Nó là nơi diễn ra việc trao đổi thư từ, tài liệu, chứng từ kinh doanh. Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm giao dịch giữa doanh nghiệp với các khách hàng, bạn hàng, và với các cơ quan Nhà nước. Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 yêu cầu doanh nghiệp phải có xác nhận trụ sở giao dịch khi đăng ký kinh doanh để tránh vấn đề doanh nghiệp “ma”, có nghĩa là doanh nghiệp xin thành lập nhưng không có trên thực tế hay biến đi một nơi khác để hoạt động trốn thuế hay vì các mục đích bất chính khác. Yêu cầu này cũng giúp Nhà nước quản lý hành chính một cách dễ dàng. Hiện nay, pháp luật không đòi hỏi doanh nghiệp phải có xác thực về trụ sở chính, nhưng vẫn yêu cầu doanh nghiệp phải khai báo vấn đề này nhằm mục đích ngoài việc bảo vệ lợi ích chính đáng của khách hàng và các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp, còn để biết rõ trụ sở giao dịch của doanh nghiệp để quản lý hành chính. Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp là một thông tin quan trọng để xác định thẩm quyền tòa án khi có tranh chấp. Vì các lẽ đó, cơ quan đăng ký kinh doanh có nghĩa vụ cung cấp công khai theo Điều 27 của Luật Doanh nghiệp 2005.

Ngành, nghề kinh doanh

Vì ngành nghề kinh doanh có vai trò và ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với bản thân doanh nghiệp, mà còn đối với việc trật tự phát triển kinh tế- xã hội nói chung như trên đã phân tích. Do đó thông tin về ngành nghề được pháp luật đòi hỏi khi đăng ký kinh doanh.

Vốn điều lệ đối với công ty, vốn đầu tư ban đầu của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân

Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong kinh doanh. Pháp luật trước kia đưa ra quy định chung về mức vốn tối thiểu mà doanh nghiệp phải có đối với kinh doanh mỗi ngành nghề. Vốn đó được gọi là “vốn pháp định”. Doanh nghiệp được yêu cầu phải có mức vốn kinh doanh lớn hơn hoặc tối thiểu bằng mức vốn điều lệ. Đó là một yêu cầu và là một yếu tố cho phép thành lập và đăng ký kinh doanh. Hiện nay vẫn có quan niệm cho rằng: vốn pháp định là cần thiết để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả của doanh nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế qui định về vốn pháp định mặt khác làm hạn chế quyền tự do kinh doanh và không động viên được mọi nguồn vốn tham gia vào sản xuất, kinh doanh. Vì vậy Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có qui định chung về vốn pháp định, tuy nhiên vẫn có yêu cầu vốn pháp định đối với một số ngành nghề kinh doanh đặc biệt, chẳng hạn như kinh doanh vận chuyển hàng không, kinh doanh ngân hàng... bởi các ngành nghề đặc biệt này đòi hỏi phải có một năng lực tài chính thực sự từ ban đầu và nhằm bảo vệ trật tự kinh doanh và an toàn cho khách hàng và đối tác làm ăn. Đối với những ngành nghề không bị ràng buộc về yêu cầu vốn pháp định thì doanh nghiệp được phép tự xác định mức vốn ban đầu cho hoạt động kinh doanh.

Phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh; số cổ phần mà cổ đông sáng lập đăng ký mua, loại cổ phần, mệnh giá cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại đối với công ty cổ phần

Đơn xin đăng ký kinh doanh phải nói rõ vốn góp của các thành viên công ty. Việc xác định vốn góp của thành viên có ý nghĩa trong việc: (1) Phân bổ lợi ích khác nhau của các thành viên trong công ty; và (2) xác định nghĩa vụ đóng góp của thành viên vào hoạt động của công ty. Vì vậy Luật Doanh nghiệp 2005 qui định rõ vấn đề vốn góp đối với từng hình thức doanh nghiệp. Vấn đề vốn góp cũng là một điều khoản quan trọng của Điều lệ công ty bởi Điều lệ công ty là sự thỏa thuận, cam kết của các thành viên công ty đối với nhau. Vì vậy trong đó phải xác định nghĩa vụ đóng góp vào công ty và phân bổ lợi ích trong công ty. Vì các lẽ đó Đơn xin đăng ký kinh doanh phải công khai vấn đề góp vốn làm cơ sở cho việc Nhà nước bảo vệ lợi ích của từng thành viên và để giải quyết tranh chấp sau này (nếu có) giữa các thành viên.

Họ tên, địa chỉ thường trú, thông tin cá nhân của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Yêu cầu này nhằm xác định rõ nhân thân của người có trách nhiệm trong doanh nghiệp bởi doanh nghiệp phải hoạt động thông qua người đại diện của nó. Yêu cầu này cũng giúp cho các cơ quan Nhà nước và khách hàng cũng như các đối tác kinh doanh có thể liên hệ, trao đổi với người đại diện của doanh nghiệp.

+ Điều lệ Công ty

Điều lệ là bản cam kết của các thành viên công ty. Nó được xem là “Hiến pháp” của Công ty. Điều lệ do các thành viên cùng nhau thỏa thuận và quy định về các vấn đề quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động của công ty. Vì thế Luật Doanh nghiệp 2005 không đưa ra một điều lệ mẫu cho mọi công ty mà chỉ yêu cầu Điều lệ phải có những điều khoản “tối thiểu”. Tuy nhiên so với pháp luật của các nước khác, Luật Doanh nghiệp 2005 qui định điều lệ phải có quá nhiều điều khoản bắt buộc, có nghĩa là điều khoản “tối thiểu” quá nhiều. Như vậy tự do kinh doanh có phần bị bó hẹp. Có lẽ nhà làm luật muốn

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/12/2022