- Đề tài nghiên cứu cấp bộ:
+ Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong công tác kiểm sát hình sự, đề tài nghiên cứu cấp bộ, do Ngô Văn Đọn làm chủ nhiệm đề tài, năm 2004;
+ Sổ tay kiểm sát viên hình sự, của VKSND tối cao, tập I năm 2006;
+ Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2006;
+ Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, của TS. Lê Hữu Thể chủ biên, Nxb Tư pháp, năm 2008;
- Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập đến ADPL trong thực hành quyền công tố của VKSND:
+ Luận án tiến sĩ: Quyền công tố ở Việt Nam, của nghiên cứu sinh Lê Thị Tuyết Hoa thực hiện năm 2002;
+ Luận văn thạc sĩ: Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, của Trịnh Duy Tám, năm 2005;
+ Luận văn thạc sĩ: Áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ án ma túy theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, của Bùi Mạnh Cường, năm 2007;
+ Luận văn thạc sĩ: Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với vụ án người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, của Vũ Xuân Thoan, năm 2008;
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – Thực tiễn tại tỉnh Yên Bái - 1
- Khái Niệm Thực Hành Quyền Công Tố Ở Giai Đoạn Điều Tra Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân
- Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – Thực tiễn tại tỉnh Yên Bái - 4
- Đặc Điểm Của Hoạt Động Áp Dụng Pháp Luật Trong Thực Hành Quyền Công Tố Ở Giai Đoạn Điều Tra Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
- Một số bài viết như: “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp” của Hà Mạnh Trí, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2003; “Đặc trưng của áp dụng pháp luật hình sự” của Chu Thị Trang Vân đăng trên Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 3/2006; “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” của Đỗ Văn Đương, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7/2006; “Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện của nhà nước pháp quyền” của Nguyễn Đăng Dung, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10/2008…
Các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu về mặt lý luận, thực tiễn, đề xuất những giải pháp khoa học ở các cấp độ khác nhau, ở các địa phương khác nhau nhằm bảo đảm việc ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các VAHS. Tuy nhiên, mỗi địa phương có những đặc thù khác nhau nên việc áp dụng ở tỉnh Yên Bái không tránh khỏi những bất cập. Kế thừa các kết quả nghiên cứu nêu trên, tác giả tiếp cận vấn đề ADPL dưới góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật để nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái. Tác giả mong muốn tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra nói chung và tại VKSND tỉnh Yên Bái nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái từ năm 2011 đến 2015.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Giới hạn về không gian và thời gian: Trên cơ sở lý luận về ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu thực tiễn ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND tỉnh Yên Bái từ năm 2011 đến năm 2015.
+ Giới hạn về giai đoạn tố tụng: Theo quy định của BLTTHS (2003), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (2014), VKS là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng thực hành quyền công tố. Đây là lĩnh vực rất rộng lớn, bởi vậy luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề về lý luận, cơ sở pháp lý, thực trạng APDL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra và đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo việc ADPL được đúng đắn, nâng cao hơn nữa chất lượng thực hành
quyền công tố của VKSND tỉnh Yên Bái, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong tỉnh đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ tốt hơn lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích cơ sở lý luận về ADPL và ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND theo quy định của pháp luật. Tập trung làm rò khái niệm, nội dung, đặc điểm, vai trò, quy trình và các yếu tố bảo đảm việc ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND;
+ Phân tích thực trạng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của VKSND tỉnh Yên Bái. Phân tích làm rò những kết quả đạt được cũng như những hạn chế tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái;
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp để nâng cao chất lượng ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND tỉnh Yên Bái, đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKS, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy dân chủ, công khai minh bạch đối với hoạt động của các cơ quan công quyền trong đó có hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị, chính sách pháp luật Đảng và Nhà nước ta trong tố tụng hình sự, luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, thống kê và so sánh, kết hợp lý luận và khảo sát thực tiễn…
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và có hệ thống ở cấp độ luận văn thạc sĩ về hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự của VKSND tỉnh Yên Bái.
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tư liệu tham khảo phục vụ cho cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành Kiểm sát, nhất là những Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố. Bên cạnh đó, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên luật, cán bộ nghiên cứu giảng dạy và nghiên cứu một số chuyên đề khác có liên quan đến hoạt động ADPL trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, các giai đoạn của hoạt động áp dụng pháp luật
* Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật là các quy tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, có tính bắt buộc chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện trên cơ sở kết hợp giáo dục thuyết phục và cưỡng chế nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật chỉ có thể thực sự phát huy hiệu quả khi các quy định do Nhà nước đặt ra được chính các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân thực hiện một cách nghiêm minh và tự giác. Căn cứ vào tính chất của việc thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã phân chia thành 4 hình thức thực hiện pháp luật gồm: Tuân thủ pháp luật (còn gọi là tuân theo pháp luật), thi hành pháp luật (còn gọi là chấp hành pháp luật), sử dụng pháp luật và ADPL. Trong đó, ADPL là hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt quan trọng vì nó là bảo đảm pháp lý cho toàn bộ các hình thức thực hiện pháp luật khác, tức là cho hoạt động thực hiện pháp luật nói chung. Bởi trong nhiều trường hợp, chủ thể thực hiện pháp luật không muốn hoặc không đủ khả năng thực hiện pháp luật nếu thiếu sự tham gia của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì khi đó cần thiết phải ADPL.
ADPL là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật, ra các quyết định ADPL vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội [17, tr. 500].
Trên thực tế, ADPL được tiến hành vô cùng linh hoạt bởi sự đa dạng của hệ thống quy phạm pháp luật cũng như phương thức thực thi pháp luật của các chủ thể. Xét về nội dung và khả năng hiện thực hóa quyền và nghĩa vụ pháp lý, có thể khái quát một số trường hợp cơ bản cần ADPL như sau:
- Khi có vi phạm pháp luật xảy ra, và cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước, hoặc áp dụng các chế tài pháp luật đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn như khi Tòa án xét xử vụ án hình sự hoặc hành chính…
- Khi quan có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ pháp lý mà các chủ thể không tự giải quyết được. Ví dụ khi có tranh chấp về bất động sản liều kề giữa các hộ gia đình ở gần nhau, tranh chấp về thừa kế…
- Khi quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Chẳng hạn, khi một cá nhân đã đủ điều kiện được nâng bậc lương theo quy định của pháp luật nhưng họ không thể tự mình ra quyết định hoặc mặc nhiên được hưởng bậc lương đó mà cần phải có quyết định của chủ thể có thẩm quyền.
- Khi Nhà nước xác định một hành vi, một kết quả hoạt động hoặc một mối quan hệ xã hội nào đó là hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Ví dụ, khi công chứng, chứng thực các loại giấy tờ, hoặc khi xác nhận đăng ký kết hôn…
- Trong một số trường hợp nhà nước thấy cần thiết phải tham gia vào một số quan hệ pháp luật cụ thể để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó, bảo đảm tính đúng đắn của các hành vi.
Mặc dù hiện nay còn có những quan niệm khác nhau về ADPL nhưng tác giả đồng tình với quan điểm của đa số các nhà khoa học pháp lý khi cho rằng: ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, quyền lực của Nhà nước, được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân cụ thể và tổ chức cụ thể.
* Đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật
- ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước:
Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện nên dĩ nhiên nó mang tính quyền lực nhà nước. Nhờ có sự bảo đảm của nhà nước nên pháp luật mới có sức mạnh bắt buộc đối với mọi chủ thể có liên quan. Như vậy, ADPL thực chất là quá trình sử dụng quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước có hiệu lực trên thực tế.
- ADPL là hoạt động tuân theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định:
ADPL là quy trình đặc biệt của việc thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật có giá trị điều chỉnh trên thực tế. Mặt khác, chủ thể bị ADPL có thể được hưởng những lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải chịu những hậu quả nghiêm trọng từ hoạt động ADPL. Do vậy, pháp luật phải quy định rò ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình ADPL. Tùy thuộc vào từng lĩnh vực ADPL mà trình tự, thủ tục được xác lập cho phù hợp. Các quy trình, thủ tục ADPL có thể đầy đủ hoặc được rút gọn theo quy định của pháp luật. Như vậy, không thể có một quy trình, thủ tục chung cho các lĩnh vực ADPL trên thực tế.
- ADPL là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội nhất định:
Đối tượng của hoạt động ADPL là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hoạt động ADPL, những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa vào những trường hợp cụ thể của đời sống. Chính nhờ có quá trình ADPL mà nhiều quy phạm pháp luật mới có điều kiện được thực thi hay có hiệu lực trên thực tế. Hơn nữa, về phía chủ thể, nhờ có ADPL mới xác định được những giới hạn pháp lý cần thiết cả về quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý có liên quan khi tham gia quan hệ pháp luật. ADPL cũng làm rò cả khía cạnh đòi hỏi cụ thể về mặt hình thức, thủ tục đối với việc thực hiện những nội dung cơ bản đó.
- ADPL đòi hỏi tính sáng tạo cao của các chủ thể có thẩm quyền:
ADPL là quá trình thực hiện pháp luật được hình thành trên cơ sở nhận thức. Khi ADPL, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc,
làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm, ra văn bản ADPL và tổ chức thi hành. Điều này đòi hỏi các chủ thể có liên quan không được thụ động, máy móc để có thể đảm bảo thời hiệu, thời hạn xử lý các vụ việc theo quy định pháp luật đặt ra. Đương nhiên, sáng tạo trong ADPL chủ yếu là ở góc độ kỹ thuật, tổ chức chứ không thể là sáng tạo về mặt nội dung. Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rò thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách ADPL tương tự.
Từ sự phân tích trên cho thấy, ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
* Các giai đoạn áp dụng pháp luật
Dựa vào nội dung công việc thực hiện cụ thể, khoa học và thực tiễn pháp lý chia quá trình ADPL thành bốn giai đoạn sau:
- Phân tích, đánh giá nội dung, điều kiện, hoàn cảnh sự kiện thực tế cần ADPL:
Trước hết cần xác định đúng nội dung, đối tượng, bản chất pháp lý của sự kiện thực tế, nếu cần ADPL thì phải làm rò chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết, chuẩn bị về mặt tổ chức, nhân sự, kỹ thuật cũng như xác định thời điểm tiến hành ADPL. Nếu thấy chưa đủ điều kiện hoặc không cần thiết phải tiếp tục ADPL thì các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hoặc chấm dứt việc ADPL.
Giai đoạn đầu của quá trình ADPL đặt ra những yêu cầu sau:
+ Nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ tình tiết của vụ việc;
+ Xác định được đặc trưng pháp lý của nó;
+ Tuân thủ các quy định mang tính thủ tục gắn với mỗi loại vụ việc.
- Lựa chọn quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc đưa ra các quyết định áp dụng pháp luật:
Đây là giai đoạn quan trọng trong quy trình ADPL vì nếu không đưa ra cơ sở pháp lý phù hợp và có sức thuyết phục thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các giai đoạn