Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm - 13

rộng phạm vi áp dụng đối với cả những tài sản không phải là đối tượng của vụ tranh chấp. Theo đó điều kiện áp dụng cũng cần được sửa lại theo hướng như sau “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy cần ngăn chặn người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản cho người khác”.

- Về biện pháp cấm thay đổi hiện trạng tài sản

Điều 110 BLTTDS quy định biện pháp này chỉ được áp dụng khi có điều kiện: “Có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó”. Như vậy, cũng giống như hai biện pháp nêu trên, điều luật đòi hỏi phải có sự việc tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm…tức là hành vi làm thay đổi hiện trạng tài sản phải đã và đang xảy ra trên thực tế thì đương sự mới có căn cứ để yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp này, và như vậy, sự can thiệp của Tòa án vào giải quyết các mâu thuẫn giữa các đương sự đã là quá muộn, không đạt được hiệu quả như mong muốn.

Mặt khác, quy định này còn gây khó khăn cho đương sự trong quá trình cung cấp chứng cứ về sự cần thiết phải phải áp dụng biện pháp này để bảo vệ quyền lợi của họ. Bởi lẽ, để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền, người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản sẽ sử dụng mọi thủ đoạn để thay đổi hiện trạng tài sản mà những người khác không thể biết được. Do đó, người yêu cầu áp dụng BPKCTT khó có thể có được chứng cứ để cung cấp cho Tòa án, Tòa án cũng không có căn cứ để áp dụng biện pháp này. Do đó, để nâng cao hiệu quả áp dụng BPKCTT Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp, cần sửa tên biện pháp này thành “Cấm thay đổi hiện trạng tài sản”, theo đó điều kiện áp dụng BPKCTT quy định tại Điều 110 BLTTDS cũng cần được sửa lại như sau: “Cấm thay đổi hiện trạng tài sản được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy cần ngăn chặn người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó”.

- Bộ luật TTDS cần có quy định bổ sung về việc Tòa án không ra quyết định áp dụng BPKCTT phải thông báo cho Viện kiểm sát biết

Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT đều có tác động trực tiếp đến quyền lợi của các đương sự. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 123 BLTTDS chỉ quy định: “Tòa án phải cấp hoặc gửi ngay quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT ngay sau khi ra quyết định cho người yêu cầu, người bị áp dụng BPKCTT, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và Viện kiểm sát cùng cấp”.

Như vậy, BLTTDS chưa có quy định trong trường hợp Tòa án không ra quyết định áp dụng BPKCTT thì phải thông báo cho Viện kiểm sát biết, do đó nếu việc không ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho đương sự thì Viện kiểm sát cũng không biết để thực hiện quyền kiến nghị. Quy định này chưa bảo đảm được quyền lợi của các đương sự. Do đó, để nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp của Cơ quan Viện kiểm sát, đồng thời nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng BPKCTT, BLTTDS cần có quy định bổ sung trong trường hợp Tòa án không ra quyết định áp dụng BPKCTT thì phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát biết.

- Bộ luật TTDS cần có quy định bổ sung về quyền khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT:

Theo quy định tại Điều 124 và Điều 125 BLTTDS thì các đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT…Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 125 BLTTDS có quy định quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm là quyết định cuối cùng. Quy định này chưa thực sự bảo vệ được quyền lợi của các đương sự. Bởi lẽ, như đã phân tích tại Chương 2 của luận văn, Thẩm phán ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT và Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án là người cùng một cơ quan, có quan hệ cấp trên cấp

dưới, thủ trưởng, nhân viên nên thường bao che, bảo vệ cho nhau. Việc giải quyết khiếu nại của các đương sự đối với các Thẩm phán dưới quyền còn ảnh hưởng đến thành tích thi đua của Thẩm phán nói riêng và thành tích của Tòa án nói chung nên thường không vô tư, khách quan. Thực tiễn cho thấy, các quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm đối với các quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT của Thẩm phán dưới quyền đều là giữ nguyên các quyết định của Thẩm phán trước đó đã ban hành. Do đó, để bảo vệ quyền lợi của các đương sự, khoản 2 Điều 125 BLTTDS cần phải sửa đổi, bổ sung theo hướng: “Trường hợp các đương sự, Viện kiểm sát không nhất trí với nội dung giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án thì các đương sự, Viện kiểm sát có quyền khiếu nại, kiến nghị lên Tòa án cấp trên trực tiếp. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp là quyết định cuối cùng và phải được cấp hoặc gửi ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 123 của Bộ luật này”.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

- Bộ luật TTDS cần có quy định bổ sung về trách nhiệm Tòa án trong việc không ra quyết định hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho đương sự

Tại khoản 2 Điều 101 BLTTDS quy định trách nhiệm của Tòa án trong trường hợp áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường trong 03 trường hợp: Tòa án tự mình áp dụng BPKCTT; Tòa án áp dụng BPKCTT khác với BPKCTT mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu; Tòa án áp dụng BPKCTT vượt quá yêu cầu áp dụng BPKCTT của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Có thể khẳng định rằng, các trường hợp mà Điều luật đã dự liệu nêu trên hầu như không xảy ra trên thực tế.

Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong việc giải quyết vụ án dân sự tại tòa án cấp sơ thẩm - 13

Trong khi đó, một thực tế đang diễn ra rất phổ biến là trường hợp Tòa án không ra hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho đương sự thì pháp luật chưa quy định trách nhiệm bồi thường của Tòa án trong trường hợp rất cụ thể này. Do đó, để bảo vệ quyền lợi của đương sự,

khoản 2 Điều 101 BLTTDS cần quy định bổ sung thêm trường hợp Tòa án không ra quyết định hoặc chậm ra quyết định áp dụng BPKCTT gây thiệt hại cho người yêu cầu áp dụng BPKCTT hoặc người thứ ba thì phải bồi thường.

- Bộ luật TTDS cần sửa lại quy định về việc thực hiện biện pháp bảo

đảm

Để đảm bảo lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng BPKCTT và ngăn

ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu từ phía người yêu cầu, BLTTDS đã quy định về biện pháp bảo đảm. Theo khoản 1 Điều 120 BLTTDS thì người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các BPKCTT như kê biên, cấm chuyển dịch quyền về tài sản; cấm thay đổi hiện trạng tài sản; phong tỏa tài sản, tài khoản của người có nghĩa vụ, sẽ phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng. Như vậy, quy định nêu trên của điều luật có thể được hiểu là: khoản tiền, kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá đó phải có giá trị ngang bằng với nghĩa vụ về tài sản của người có nghĩa vụ phải thực hiện và người có nghĩa vụ phải thực hiện tức là người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Với cách hiểu này trên thực tế đã có trường hợp Tòa án yêu cầu người yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện biện pháp bảo đảm bằng giá trị tài sản đang tranh chấp, do đó đã gây nhiều khó khăn, dẫn đến hạn chế quyền yêu cầu đối với người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT. Tuy nhiên, theo nghị quyết 02 ngày 27/4/2005 của HĐTP TANDTC thì lại có cách hướng dẫn khác với nội dung quy định của Điều 120 BLTTDS, cụ thể: tại điểm a tiểu mục 8.1 mục 8 của Nghị quyết hướng dẫn: “nghĩa vụ tài sản là nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại thực tế có thể xảy ra cho người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người thứ ba do việc áp dụng BPKCTT không đúng”, còn “người có nghĩa vụ phải thực hiện là người có yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng”. Mặc dù các nội dung hướng dẫn của Nghị quyết 02 của HĐTP TANDTC là phù hợp với thực tiễn áp dụng và phù hợp với bản chất của biện pháp bảo nhưng cách giải thích này lại không phù hợp với tinh thần của Điều 120 BLTTDS. Mặt khác, cách hướng dẫn về

việc xác định mức tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh trên thực tế như thế nào cũng là rất khó đối với Tòa án cũng như người đưa ra yêu cầu áp dụng BPKCTT. Bởi lẽ, việc áp dụng BPKCTT bao giờ cũng được tiến hành trước, các thiệt hại có thể phát sinh do việc áp dụng BPKCTT không đúng xảy ra sau, cho nên trong mọi trường hợp việc tạm tính thiệt hại xảy ra trên thực tế đều chỉ là vò đoán, không có căn cứ chắc chắn, không chính xác nên không đem lại hiệu quả như mong đợi mà còn gây nhiều khó khăn cho đương sự trong việc đưa ra yêu cầu áp dụng BPKCTT, đồng thời Tòa án cũng bị lúng túng trong quá trình áp dụng.

Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng BPKCTT, BLTTDS cần thiết phải sửa đổi các quy định về buộc thực hiện biện pháp theo hướng như sau: “Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của Bộ luật này phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng BPKCTT và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT từ phía người có quyền yêu cầu”.

Việc sửa đổi quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm nêu trên đồng nghĩa với việc tăng thẩm quyền cho Thẩm phán trong việc xác định giá trị tài sản bảo đảm mà người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT phải thực hiện, với quy định này sẽ làm tăng hiệu quả của việc áp dụng BPKCTT, kịp thời bảo vệ được quyền lợi của các đương sự. Bởi lẽ, hơn ai hết, Thẩm phán là người nắm rò nhất các tình tiết có trong hồ sơ vụ án, là người trực tiếp đánh giá các tài liệu, chứng cứ, nên đối với mỗi vụ án cụ thể họ sẽ phải biết tính toán giá trị các tài sản được dùng để thực hiện biện pháp bảo đảm sao cho phù hợp, vừa để giải quyết vụ án được đúng đắn, chính xác vừa bảo đảm được quyền lợi của các đương sự.

- Bộ luật TTDS cần bổ sung quy định về thời điểm yêu cầu áp dụng BPKCTT:

Tại Điều 99 BLTTDS quy định đương sự có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết vụ án (tức sau khi vụ án đã được thụ

lý) hoặc sớm hơn là đồng thời với thời điểm nộp đơn khởi kiện, trường hợp muộn nhất là tại phiên toà sơ thẩm. Như vậy, có thể nói rằng việc đương sự yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT gắn liền với việc khởi kiện, với quy định này nếu đương sự có yêu cầu áp dụng BPKCTT sớm hơn (trước khi khởi kiện) sẽ không được Tòa án chấp nhận, điều này đã hạn chế quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT, không kịp thời bảo vệ được quyền lợi của đương sự. Bởi lẽ, khi khởi kiện, người khởi kiện phải làm đơn khởi kiện, đồng thời phải cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, các tài liệu đó phải là bản gốc hoặc bản sao có chứng thực, việc chuẩn bị các tài liệu chứng cứ đó không phải dễ dàng thực hiện được ngay mà có thể phải phụ thuộc vào cơ quan tổ chức khác (ví dụ chứng thực văn bản tại Ủy ban phải phụ thuộc vào các cán bộ Ủy ban), điều đó sẽ làm cho các đương sự mất nhiều thời gian. Mặt khác, các quy định về thời hạn thụ lý vụ án dân sự hiện nay còn chưa được kịp thời, phần lớn đơn khởi kiện của các đương sự nếu đủ điều kiện để Tòa án thụ lý nhanh nhất cũng phải từ 05 ngày đến 10 ngày, thậm chí có trường hợp lâu hơn (có khi là vài tháng), trong khoảng thời gian đó người bị kiện đã kịp thời tẩu tán, hủy hoại hết tài sản.

Vì vậy, việc áp dụng BPKCTT trở thành vô nghĩa, không có tác dụng. Trong khi đó, nhiều trường hợp đương sự chỉ muốn yêu cầu Tòa án áp dụng ngay một BPKCTT để bảo toàn tài sản, bảo vệ quyền lợi ích của mình mà không muốn khởi kiện hoặc sau đó họ tự giải quyết được tranh chấp nên không khởi kiện. Tuy nhiên, với quy định pháp luật hiện hành, yêu cầu nêu trên của đương sự là không được chấp nhận. Tham khảo vấn đề này, theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Pháp, Nga, Trung Quốc… đều có quy định đương sự có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT trước khi khởi kiện. Vì vậy, để việc áp dụng BPKCTT có hiệu quả, đúng mục đích Bộ luật tố tụng dân sự nước ta nên tiếp thu các quy định pháp luật tiến bộ của một số nước tiến tiến trên thế giới, sửa đổi quy định về thời điểm yêu cầu

ADBPKCTT theo hướng cho phép đương sự được quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT trước khi khởi kiện.

- Sửa đổi các quy định về thời hạn ra quyết định áp dụng BPKCTT

Như đã phân tích tại Chương 2 của luận văn, thời hạn xem xét, giải quyết đơn và ra quyết định áp dụng BPKCTT theo quy định tại Điều 117 BLTTDS thì tùy thuộc vào thời điểm đương sự nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT thuộc giai đoạn nào (trong quá trình giải quyết vụ án, tại thời điểm nộp đơn khởi kiện hay tại phiên tòa) thì thời hạn xem xét, giải quyết đơn và ra quyết định áp dụng BPKCTT đối với từng trường hợp là 03 ngày, 48 giờ hoặc HĐXX quyết định sau khi đương sự đã xuất trình được các chứng cứ về việc thực hiện xong biện pháp bảo đảm là quá muộn, không thể hiện được tính khẩn cấp, tức thời cần phải áp dụng ngay BPKCTT để bảo toàn tài sản, bảo đảm thi hành án. Trong giai đoạn hiện nay, trình độ khoa học kỹ thuật đã có những bước phát triển vượt bậc, vì vậy chỉ cần vài thao tác đơn giản trong khoảng thời gia rất ngắn (vài phút hoặc thậm chí vài giây) người có nghĩa vụ phải thực hiện có thể rút hết tiền ra khỏi tài khoản hoặc tẩu tán, hủy hoại xong tài sản.

Về vấn đề này, theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới, các quy định về thời hạn ra quyết định áp dụng BPKCTT của họ thể hiện được tính khẩn cấp, cấp tốc, kịp thời hơn so với pháp luật nước ta, điển hình như PLTTDS của Cộng hòa Liên Bang Nga thì: “Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT được giải quyết nhanh gọn ngay trong ngày nhận đơn, Tòa án ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT ngay trong ngày hôm đó mà không phải thông báo trước cho bị đơn và những người tham gia tố tụng khác” (Điều 141 BLTTDS Liên Bang Nga). Hoặc BLTTDS của Pháp, tại Điều 484 có quy định: “Thẩm phán giải quyết vụ án có quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT ngay tức khắc, trong trường hợp cần mau chóng giải quyết yêu cầu của đương sự, Thẩm phán có quyền triệu tập đương sự vào ngày lễ, ngày nghỉ. Đây là những quy định tiến bộ đã phát huy được hiệu quả trên thực tế. Do đó, BLTTDS Việt Nam cũng cần mạnh dạn tiếp thu các quy định pháp luật tiến bộ để vận dụng

vào xây dựng pháp luật nước nhà. Vì vậy, BLTTDS cần sửa đổi quy định về thời hạn ra quyết định áp dụng BPKCTT theo hướng trao quyền cho Thẩm phán giải quyết vụ án được quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT ngay lập tức ngay sau khi nhận được đơn yêu cầu để kịp thời bảo vệ được quyền lợi cho đương sự.

- Bộ luật TTDS cần bổ sung quy định về thủ tục áp dụng BPKCTT trong trường hợp Tòa án tự mình áp dụng BPKCTT:

BLTTDS của Việt Nam có quy định về hai trường hợp áp dụng BPKCTT (trường hợp Tòa án tự mình áp dụng BPKCTT và áp dụng BPKCTT theo yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, tại Điều 117 BLTTDS chỉ quy định về thủ tục áp dụng BPKCTT trong trường hợp đương sự yêu cầu mà chưa có quy định về thủ tục áp dụng BPKCTT trong trường hợp Tòa án tự mình áp dụng BPKCTT. Do đó, trường hợp Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng BPKCTT không có các quy định về thủ tục làm căn cứ để thực hiện, dẫn đến trường hợp mỗi Tòa khác nhau ra quyết định áp dụng BPKCTT một kiểu, không bảo đảm được sự khoa học thống nhất. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả áp dụng BPKCTT trong việc giải quyết các vụ án dân sự, BLTTDS cần bổ sung các quy định về thủ tục áp dụng BPKCTT trong trường hợp Tòa án tự mình ra quyết định BPKCTT.

- Về việc áp dụng BPKCTT tại phiên tòa sơ thẩm:

Tại khoản 2 Điều 117 BLTTDS quy định đương sự có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT tại phiên tòa: “Trường hợp HĐXX nhận đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT tại phiên tòa thì HĐXX xem xét, ra quyết định áp dụng BPKCTT ngay hoặc sau khi người yêu cầu đã thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 120 Bộ luật này”. Với việc quy định tại phiên tòa sơ thẩm, đương sự được quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT dường như đã mở rộng cơ hội để nguyên đơn bảo vệ được quyền lợi của mình. Tuy nhiên, ngoài quy định nêu trên, Điều 117 BLTTDS không còn quy định gì thêm. Còn theo hướng dẫn tại điểm a mục 9.2 phần 9 của Nghị quyết số 02/2005/ NQ – HĐTPTANDTC đối với trường hợp này thì: “Đối với trường hợp quy định tại

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022