Tiếng Nói Mãnh Liệt Của Tình Yêu, Hạnh Phúc Cá Nhân

quên đi tình cảm, trách nhiệm với đồng đội bởi một triết lý sống kỳ quái: “xã hội loài người cũng giống như xã hội loài nhím, nếu sống kề sát bên nhau quá thì lông con này sẽ đâm vào da con kia. Cho nên người ta sống kề nhau cần phải để một khoảng cách” (Hạng). Người họa sĩ tài năng, danh tiếng lại trở thành “bề dưới”, thành kẻ “chịu ơn” trước một anh thợ cắt tóc bình thường (Bức tranh), thái độ thờ ơ, phàm tục đối với những người xung quanh không phải lúc nào cũng vô hại, bởi “đôi lúc con người ta trở nên tàn ác một cách rất hồn nhiên” (Đứa ăn cắp). Vẻ đẹp tuyệt bích của chiếc thuyền trong sương sớm lại đối nghịch hoàn toàn với hiện thực đời sống trong chiếc thuyền ấy, nỗi đau câm lặng bị đánh đập, hành hạ của người đàn bà hàng chài lại không phải là nguyên cớ để chị có thể ly dị chồng, những người muốn ra tay cứu giúp chị (Phùng và Đẩu) cuối cùng lại được chính chị “khai hóa”… (Chiếc thuyền ngoài xa). Thông qua những nghịch lý ấy, nhà văn muốn khẳng định: “nhận thức hoàn cảnh, nhận thức các tình thế đời sống, nhận thức cái lẽ đời cay cực” [48] phải có cái nhìn đa diện, đa chiều, mới có thể hiểu được cái bản chất trong cái hiện tượng, thấy được chiều sâu cuộc sống. Đó chính là sự đổi mới nhận thức được phản ánh trong văn xuôi hậu chiến.

Trăn trở trước những tha hóa trong nhân cách con người, Ma Văn Kháng thể hiện cảm hứng đạo đức khá rò khi nhà văn hướng về những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp cần được giữ gìn trong xã hội, trong gia đình… đang bị xa rời, đang mất mát, nhạt nhòa trong con người, đó là những truyền thống gia đình có nguy cơ bị phá vỡ bởi tác động của hoàn cảnh (Mùa lá rụng trong vườn), là tình cảm quê hương gốc gác bị chối bỏ, đồng nghĩa với những tình cảm ruột thịt (bà cháu, cha con) trở thành xa lạ (Quê nội), là tình phụ tử bao la bị ghẻ lạnh bởi sự bạc bẽo, vô ơn của đứa con lớn lên từ chính sự trìu mến vô bờ ấy (Đợi chờ)... Nhà văn nhìn thấy những đối nghịch trong cuộc sống hàng ngày: tinh thần, trách nhiệm và sự trốn tránh, thoái thác, ích kỉ (Mất điện), cái thiện và cái xấu, cái ác (Kiểm - chú bé - con người)…

Từ góc độ đời tư, văn xuôi hậu chiến khám phá con người ở mọi quan hệ, mọi phẩm chất. Nhìn một cách nào đó, Trí (Hai người trở lại trung đoàn), Phú (Quê nội), Huyền (Đợi chờ), Hạng (Hạng), Cừ (Mùa lá rụng trong vườn), người chồng (Chiếc thuyền ngoài xa)... đều là những biến đổi đáng sợ về phẩm chất dưới

tác động của hoàn cảnh. Có người vì những toan tính không có hình thù... mà trở nên nhỏ nhen, giả dối, vụ lợi; có người vì ích kỉ cá nhân mà quên đi tình nghĩa, trở thành kẻ bàng quan, vô trách nhiệm; có người từ bản tính hiền lành, chất phác vì nhọc nhằn, khổ cực của cuộc sống mưu sinh mà trở nên vũ phu, tàn ác.... Phê phán, cảnh báo những biểu hiện xuống cấp về đạo đức của con người, nhà văn hướng về khát khao bảo vệ cái đẹp, cái thiện, về niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người.

Vấn đề đạo đức nhân cách trong văn xuôi hậu chiến được mổ xẻ dưới nhiều góc độ, trong đó có những biểu hiện nhân cách được soi chiếu từ những người lính: những người anh hùng trở về sau chiến tranh. Trong guồng quay của chiến tranh, họ là những người chiến thắng, tư thế ấy có còn vững vàng trong guồng quay của cuộc sống thời hậu chiến? Sài (Thời xa vắng) là một người lính anh dũng trên chiến trường nhưng trong cuộc sống riêng tư, anh lại là kẻ thất bại cay đắng. Hai cuộc hôn nhân tan vỡ là bằng chứng cho hai sai lầm lớn nhất đời anh: sống hộ ý muốn sống theo ý thích của người khác. Đông (Mùa lá rụng trong vườn) - một trung tá đã qua hai mùa kháng chiến, trở về cuộc sống thường ngày lại trở nên“chậm chạp, thản nhiên, ụ ị, mù mờ, dường như khách quan với tất cả mọi sự kiện, kể cả việc quan thiết đến mình” [19,29], chỉ biết một việc duy nhất: tổ tôm. Đông cho rằng mình xứng đáng được nghỉ ngơi, được đền bù vì những tháng ngày vất vả, khổ sở. Anh bàng quan với mọi việc xung quanh, với mọi biến cố xảy ra trong gia đình. Đông đã mất vợ, mất chính bản thân mình vì sự vô tâm ấy. Biểu hiện của tư tưởng công thần trong nhân vật Đông sau này được khai thác mạnh hơn, sâu sắc hơn ở nhân vật ông Trần trong tác phẩm Miền hoang tưởng của Nguyễn Xuân Khánh (Đào Nguyễn). Ông Trần (anh rể của Tư) vốn là thần tượng, là người hướng đạo cho lý tưởng của Tư (bởi những năm tháng ông đã sống hào hùng, kiên cường trong chiến tranh) giờ đây lại là con người ích kỉ. Ông luôn cho rằng, với những gì mình đã cống hiến, mình được ưu tiên là hiển nhiên, con mình được ưu đãi là hoàn toàn chính đáng. Bởi những gian khổ, hy sinh ông đã vượt qua trong chiến tranh, ông đòi hỏi những đặc quyền, đặc lợi giành cho ông và gia đình. Con người thật của ông Trần đã làm Tư choáng váng và thất vọng. “Hóa ra anh cũng là một con

người quá ư phàm tục. Xưa kia anh nói đến sự công bằng hấp dẫn biết bao. Bây giờ, anh lại chỉ muốn thành quả của sự đấu tranh vì công bằng ấy là thuộc về anh. Chẳng lẽ những mơ tưởng đẹp mà anh đã tô vẽ cho bộ óc ngây thơ của tôi ngày xưa, bây giờ chỉ là hoang tưởng” [136,125]. Và trong tiếng đàn đầy suy tư, khắc khoải, Tư đã kể lại những sự thật trớ trêu: người đàn bà năm xưa - đã chết vì cứu sự sống của vợ con ông Trần - năm đứa con của bà, có người vẫn đang chiến đấu, có người đã hy sinh, người đang vất vả với cuộc sống thường nhật; người liên lạc năm xưa đã lấy thân mình che chở cho sự sống của ông Trần nay là một thương binh cụt tay, năm người con của ông, hai người là liệt sĩ, một đứa đi cải tạo… Trong khi con cái ông Trần đều được ra nước ngoài du học, thì con cái của những người từng cứu sống ông lại đang sống khổ cực và tiếp tục cống hiến, hy sinh vì đất nước. Họ có đòi hỏi đặc quyền, đặc lợi như ông? Khi đạo đức, nhân cách con người không còn gắn bó với cộng đồng, dân tộc, với lợi ích tập thể mà chỉ chăm chút, vun vén cho lợi ích cá nhân, đạo đức ấy, nhân cách ấy chắc chắn sẽ bị tha hóa. Đằng sau những tiếng đàn, những suy tư miên man của nhân vật là những tầng sâu ý nghĩa đáng phải suy ngẫm về vấn đề đạo đức, nhân cách con người.

Lặng lẽ và khiêm nhường, đi sâu vào hiện thực tâm trạng, truyện ngắn Bùi Hiển nhấn mạnh đến lẽ sống, cách ứng xử trong đời thường và quá trình hoàn thiện nhân cách của con người. Cảm hứng đạo đức thể hiện khá rò khi ông viết về quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng (Cái bóng - cọc), về bản lĩnh sống của cá nhân trước những hiện tượng tiêu cực trong xã hội (Anh bạn Kỉnh của tôi), về mâu thuẫn giữa lòng hào hiệp, vị tha, sự chân thành và sự toan tính, vị kỉ trong tình yêu, hạnh phúc (Hào hiệp), về những nhận thức đầy ý nghĩa nhân sinh trong cuộc đời mỗi người (Tâm tưởng)… Khai thác thế giới bên trong của nhân vật, nhà văn thể hiện những suy tư sâu sắc về cuộc sống, con người. Tính tư duy, chiêm nghiệm, triết lý biểu hiện khá đậm nét trong truyện ngắn Bùi Hiển là vì vậy.

Bằng giọng văn trầm tĩnh, dung dị và kín đáo, nhà văn Ngô Thị Kim Cúc mang lại cho người đọc rất nhiều suy ngẫm về cái thiện và cái đẹp. Hạnh phúc nhỏ bé mà quý giá của Lam (Vị ngọt hòa bình), niềm vui giản dị của cô mậu dịch viên (Cửa hàng của chúng tôi: số 47), những khổ đau và hạnh phúc trong cuộc đời chị

Thương (Ngọn đèn nhỏ trên sân khấu tí hon), bản chất tốt đẹp và bản lĩnh sống của Chi, Thúy An (Chuyện kể trên đồi thơm), sự hướng thiện mạnh mẽ của Xuân (Xuân Phú Ninh)… đều là những bài học nhân sinh nhuần nhị, đánh thức những khoảng sáng trong tâm hồn con người.

Cảm hứng đạo đức được thể hiện rò trong văn xuôi hậu chiến qua những cuộc đấu tranh nội tâm của nhân cách: đó là những đối thoại trong tâm tưởng nhân vật, những cuộc độc thoại nội tâm có phân vai. Phương thức trần thuật này có tác dụng đặc biệt trong việc thể hiện chiều sâu tâm hồn con người. Trong mỗi con người, luôn luôn có những cuộc đấu tranh quyết liệt đến mức đã phân thân thành những tiếng nói, những tư cách khác nhau để lý lẽ, tranh biện. Những đối thoại nội tâm thể hiện nhu cầu, khát khao tự hoàn thiện nhân cách của con người. Nhân vật tự thú, nhân vật sám hối, nhân vật tự nhận thức xuất hiện nhiều trong văn xuôi giai đoạn này là vì thế .

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.

Trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, cuộc đối thoại trong tâm tưởng Quỳ là lời sám hối:

“- Em sẽ không còn đòi hỏi ở anh một con người tuyệt đối hoàn mỹ... Anh hãy cứ mừng vui hí hửng khi được thăng cấp. Hãy sống tự nhiên, anh hãy cứ yêu người này, ghét bỏ người kia, anh hãy cứ mặc bộ quần áo, đội chiếc mũ em không thích. Em càng yêu anh gấp ngàn vạn lần đôi bàn tay luôn luôn dấm dáp mồ hôi của anh!..” [56,143].

Văn xuôi Việt Nam thời kỳ hậu chiến 1975-1985 - 16

Quỳ đã từng kết tội người đàn ông mình yêu, chính những thói xấu thường tình và tật ra mồ hôi tay của anh đã khiến chị rời bỏ anh. Và sau những nhận thức, trải nghiệm đau đớn, Quỳ đã tự sám hối trong cuộc đối thoại với chính mình. Cuộc đối thoại quyết liệt, thầm lặng giữa Quỳ và Hòa: một bên đã chấp nhận một con người thực giữa còi trần thế … với những nết tốt và thói xấu, một bên lại kiên quyết làm một thánh nhân… đã giúp cô y sĩ đặc biệt ấy “hiểu thêm cuộc đời từ một phía khác: cuộc đời không có thánh nhân, cũng như không có một người nào mà tâm hồn hoàn toàn không thể cứu chữa được” [56,178]

Khác với văn học sử thi, trong văn xuôi hậu chiến, đặc biệt ở mảng đề tài thế sự đời tư, nhân vật văn học hiện lên đa diện và phức tạp. Nhà văn đã chú ý đến con

người như một thực thể nhân cách phức tạp với sự đan xen giữa cái tốt - xấu, cao thượng - thấp hèn, bao dung - vị kỉ… (Bức tranh, Thợ làm móng tay, Ngôi nhà trên cát…). Giảm bớt cốt truyện miêu tả hành động bên ngoài, tăng cường cốt truyện bên trong để bộc lộ trạng thái tâm lý của nhân vật là xu hướng của cốt truyện trong văn xuôi hậu chiến. Cốt truyện với đầy đủ diễn biến của sự kiện không còn giữ vai trò cơ bản mà lùi xuống hàng thứ yếu sau tính cách. Việc phân tích nội tâm trở thành phương tiện nghệ thuật của cách dựng truyện này. Nguyễn Minh Châu với loạt truyện ngắn trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành Bến quê là những khai mở đầu tiên trong loại cốt truyện này.

Những cuộc đấu tranh để tự hoàn thiện mình, để tự vượt lên chính bản thân mình luôn là những cuộc đấu tranh cần thiết cho mỗi con người. Soi chiếu vào những bài học đạo đức, nhân cách trong văn xuôi hậu chiến, người đọc sẽ có được nhận thức đúng đắn về nhân cách, bản lĩnh con người trước những thử thách khắc nghiệt trong cuộc sống. Đó chính là một trong những chức năng quan trọng, đáng quý của văn chương - chức năng giáo dục.

3.1.2.2. Tiếng nói mãnh liệt của tình yêu, hạnh phúc cá nhân

Sau năm 1975, với cảm hứng thế sự đời tư, các phạm trù tình yêu, hạnh phúc gia đình đã trở thành những gam màu chính trong văn học. Trong khoảng năm năm đầu thập kỉ tám mươi, những tác phẩm của Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Dương Thu Hương, Vũ Huy Anh... là những “mũi khoan thăm dò đầu tiên vào vỉa ngầm hiện thực phức tạp và tinh vi này” [123,114].

Trước 1975, tình yêu, hạnh phúc gia đình được khai thác trong những tình cảm cộng đồng, hướng về phục vụ nhiệm vụ chính trị. Đó là tình yêu chung một lý tưởng, cùng chiến đấu chống kẻ thù, là lời hẹn hoàn thành nhiệm vụ, là sự thủy chung, đợi chờ… Đó là những tình cảm lãng mạn cách mạng: “Anh yêu em như yêu đất nước/Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần” (Nguyễn Đình Thi) hay “Hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí” (Tố Hữu)… Sau năm 1975, tình yêu, hạnh phúc gia đình được khai thác ở nhiều cung bậc, nhiều góc độ: khát vọng tình yêu, dám đấu tranh bảo vệ tình yêu, khát khao mãnh liệt được thực hiện thiên chức của người phụ nữ…

Viết về tình yêu - cung bậc tình cảm riêng tư nhất của con người, văn xuôi hậu chiến đã phát hiện sự trở lại của ý thức cá nhân và bản ngã, sau một thời gian dài, cái tôi cá nhân nằm trong cái ta cộng đồng. Quan tâm đến khát vọng tình yêu, hạnh phúc của cá nhân, văn xuôi hậu chiến đã phản ánh những khát khao nhân bản.

Thời xa vắng của Lê Lựu là câu chuyện tình tha thiết của Hương và Sài - hai con người có khát vọng yêu mãnh liệt nhưng vấp phải rào cản của xã hội nên không thể đến được với nhau. Hai con người - hai cá tính khác nhau nên hút nhau như những cục nam châm trái dấu. Dòng nước lũ lem lém nuốt chửng những con đường làng, những bãi ruộng xanh non đã tạo cơ hội cho hai kẻ si tình gặp nhau giữa mênh mông đất trời. Hương mạnh mẽ, nồng nhiệt bao nhiêu thì Sài lại rụt rè, trầm lặng bấy nhiêu. Tình yêu không được thỏa nguyện, Sài chạy trốn bằng cách nhập ngũ. Trong khi Hương sống hết mình với tình yêu thì Sài chọn cách câm lặng. Cuộc sống thực kìm hãm Sài trong cô đơn và mệt mỏi, anh chỉ dám sống thật với lòng mình, bày tỏ khát vọng mãnh liệt của mình trong thế giới ảo ngọt ngào, lãng mạn do anh tự tô vẽ trong những trang nhật ký.

Khát vọng cháy bỏng trong tình yêu ấy cũng được Vũ Huy Anh phản ánh trong Cuộc đời bên ngoài ở nhân vật Tê-rê-sa Lành, một nữ tu sĩ tưởng suốt đời chỉ biết yêu kính Chúa. Lớn lên trong một thế giới cách biệt với đời sống bên ngoài bằng bốn bề dày lũy tre, hào sâu, với hai lần cổng được kiểm soát chặt chẽ… Lành cũng đã xác định sẽ gắn bó suốt đời với nhà dòng. Nhưng khi Lành bước vào tuổi dậy thì cũng là lúc lòng cô bối rối. “Sức sống tự nhiên trong con người cô như một mầm cây xanh vẫn vượt qua được lớp vỏ khô cứng là những sự kìm hãm, ràng buộc” [1,89]. Những tò mò về giới tính, những cám dỗ tuổi trẻ bị cấm đoán lại càng kích thích mạnh mẽ trí tưởng tượng của cô tu sĩ. Chấp chới giữa hai bờ: lề luật và tình cảm, Lành rơi vào chuỗi cảm xúc đầy mâu thuẫn: vừa ham muốn vừa lo sợ, vừa vui thích vừa ăn năn… Cô tu sĩ trinh trắng ấy đã có những suy nghĩ thật táo bạo, những suy nghĩ mà nếu mẹ bề trên biết được thì có lẽ cô sẽ bị phạt đánh tội suốt đời: “Lắm lúc cô tự nhủ, thà cô liều mình phạm tội cùng người nam lấy một lần, cho nó biết, rồi sau đó dốc lòng giữ mình, thanh sạch có lẽ còn tốt hơn là cô cứ trinh trắng thế này để rồi thường xuyên bị trí tò mò cùng sự ham muốn cám dỗ”

[1,93]. Tuy nhiên, tất cả những biểu hiện ấy mới chỉ là đốm lửa nhen lên trong tâm hồn cô gái. Đốm lửa ấy đã bị dập tắt khi Lành gặp những biến cố đầu tiên trong cuộc đời. Từ chỗ say sưa khám phá bản thân mình, (cô tự ngắm mình trong khung kính, tự yêu thích vẻ đẹp tròn trịa, đầy đặn của cơ thể), từ một cô gái khát khao sức sống, hướng về cuộc sống trần thế bên ngoài, Lành đã trở thành một tu sĩ “da xanh bủng, thân hình còm còi, lòng buồn bã nguội lạnh” [1,110] sau tác động sâu sắc của lá thư chị Gọn (kể về những bất hạnh sau khi chị bỏ nhà dòng để về cuộc sống bên ngoài) và hai cái chết của cha, mẹ cô. Lành không còn ý định trở về với đời thường nữa, cô quyết tâm gắn bó với dòng tu nhưng chính cô cũng không biết rằng đốm lửa bị dập tắt trong lòng mình vẫn để lại những viên than hồng ấm nóng. Đất nước được giải phóng, cuộc sống bên ngoài với bao niềm vui đích thực, tình yêu chính là ngọn gió lành đã thổi bùng ngọn lửa từ những viên than ấy. Hạnh phúc bình thường, giản dị của gia đình chị gái, tiếng sáo của ai đó trong những buổi chiều muộn đã tác động mạnh mẽ đến cô tu sĩ xinh đẹp, đa cảm. Lúc này cô mới nhận ra, cuộc sống của chị cô mà trước kia mẹ cô và cô coi là khổ sở, cuộc sống ấy mới là hạnh phúc: được lo toan, được yêu thương cho những người xung quanh. Tình yêu là động lực mạnh mẽ giúp Lành bước những bước chắc chắn về phía cuộc đời bên ngoài.

Hương, Sài, Lành là những con người khao khát yêu đương, nhưng trong lựa chọn tình yêu của họ đều vấp phải những rào cản về vấn đề đạo đức: với Hương, Sài là mâu thuẫn giữa tình yêu đạo đức gia đình, với Lành là sự trái ngược giữa tình yêu đạo đức dòng tu… Tuy nhiên, đạo đức gia đình của Sài là kết quả của sự ép buộc và thực chất chưa bao giờ đạo đức ấy mang lại cho Sài hạnh phúc. Còn đạo đức dòng tu của Lành lại là những điều luật trái tự nhiên, ngược với quyền lợi chân chính của con người. Sài và Hương không vượt qua được rào cản nên mối tình của họ trở thành bi kịch, còn Lành tìm được hạnh phúc bởi cô đã vượt qua những quan niệm đạo đức trong chính mình.

Khi con người đứng trước những lựa chọn nghiệt ngã giữa tình yêu, hạnh phúc cá nhân với những khuôn khổ đạo đức, lễ giáo, khát vọng hạnh phúc trong họ càng trở nên mạnh mẽ hơn và cũng đau đớn, day dứt hơn. Đó là những tâm tư,

những khát khao cháy bỏng của một người mẹ muốn đi theo tiếng gọi của trái tim, muốn đến với hạnh phúc riêng của mình nhưng lại sợ làm tổn thương những đứa con (Duyên trong Mẹ và con - Ma Văn Kháng). Là bản lĩnh, khí tiết của một cô gái, dám dâng hiến tất cả cho người yêu và quyết tâm giữ lại giọt máu của anh - người chiến sĩ anh hùng, chấp nhận sự xa lánh, hắt hủi của gia đình, làng xóm, đoàn thể (Mận trong Sao đổi ngôi - Chu Văn). Là sự đồng cảm, trân trọng, yêu thương của người lính, vượt qua rào cản khắt khe của định kiến để che chở, bênh vực cho cô gái đáng thương, tội nghiệp ấy để rồi khi cô bị giặc giết tại biên giới Tây Nam, anh đã nuôi con của cô như con của chính mình (Sơn - Sao đổi ngôi)…. Viết về khát vọng tình yêu, hạnh phúc cá nhân, văn xuôi hậu chiến đã thể hiện chiều sâu nhân bản ở sự phát hiện, trân trọng, ngợi ca và cổ vũ những khát khao chân thực, mãnh liệt ấy.

Bên cạnh phạm trù tình yêu, văn xuôi hậu chiến về đề tài thế sự - đời tư dành một mảng khá lớn cho phạm trù gia đình. Khai thác đề tài gia đình ở góc độ đời tư, các tác phẩm văn xuôi 1975-1985 thể hiện cảm hứng đạo đức rò nét khi phản ánh mối quan hệ gia đình trong cuộc sống phức tạp, khi hướng con người về những giá trị tốt đẹp, bền vững của gia đình.

Trong chiến tranh, mọi quan hệ xã hội và con người dồn lại và thu hẹp vào một mối quan hệ duy nhất: sống- chết... Bởi vậy, chiến tranh ác liệt nhưng đơn giản. Ngọn lửa chiến tranh thiêu cháy hết những “lo lắng tủn mủn về vật chất”, những “bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lý” (Đời thừa - Nam Cao). Văn xuôi trước 1975 ít đề cập đến mối quan hệ gia đình, nói cách khác, quan hệ gia đình thường được đặt trong quan hệ với cộng đồng. Hòa bình lập lại, mọi quan hệ phức tạp, mọi nhỏ nhen, nhiêu khê của cuộc sống thường ngày trỗi dậy. Hòa bình yên tĩnh “mà lại chất chứa những sóng ngầm, gió xoáy bên trong” (Nguyễn Khải). Với cái nhìn thế sự, văn xuôi sau 1975 chủ yếu khai thác không gian sinh hoạt đời thường. “Đó là khoảng không gian xác thực bắt buộc con người luôn phải bộc lộ đến tận cùng bản chất của mình, không có cơ hội lảng tránh trách nhiệm cá nhân, không gian đó làm cho mọi trò diễn bị lật tẩy” [52,136]. Bàn đến cuộc sống gia đình, văn xuôi 1975 - 1985 thể hiện rò nét cuộc sống của những con người hậu chiến trước guồng quay

Xem tất cả 171 trang.

Ngày đăng: 21/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí