Văn hóa kinh doanh ở Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường - 2


Chương 1


Văn hóa kinh doanh và vai trò của văn hóa kinh doanh đối với hoạt động kinh tế thương mại và phát hành xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường


1.1. quan niệm về văn hóa


Văn hóa là một khái niệm rất rộng và được nhiều học giả nghiên cứu tiếp cận từ những góc độ khác nhau. Theo quan niệm ở phương Đông trong tiếng Hán cổ, từ văn hóa bao gồm văn là vẻ đẹp của nhân tính, cái đẹp của tri thức, trí tuệ. Con người có thể đạt được bằng cách tự tu dưỡng của bản thân và là cách thức cai trị đúng đắn của người cầm quyền. Chữ "hóa" trong văn hóa là việc đem cái văn (cái đẹp, cái đúng, cái tốt) để cảm hóa giáo dục và hiện thực hóa trong thực tiễn đời sống. Văn hóa chính là nhân hóa hay nhân văn hóa.

Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ hoạt động vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo ra trong lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống loài người mới sáng tạo ra và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" [26, tr. 431].

Theo phạm vi hẹp, văn hóa được coi như một ngành - ngành văn hóa thông tin, văn hóa nghệ thuật để phân biệt với các ngành kinh tế - kỹ thuật khác của nền kinh tế quốc dân. Văn hóa còn được coi là một lĩnh vực hoạt động bên cạnh các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội (và chúng cần được coi trọng ngang nhau). Văn hóa được đề cập trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng, bao gồm toàn bộ đời sống tinh thần xã hội, tập trung vào những lĩnh vực then chốt nhất: Tư tưởng, đạo đức, lối sống, giáo dục đào tạo,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.


khoa học công nghệ, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa với thế giới, các thể chế văn hóa... Trong các mặt đó thì tư tưởng, đạo đức và đời sống văn hóa được coi là lĩnh vực quan trọng nhất được đặc biệt quan tâm hiện nay.

Văn hóa kinh doanh ở Công ty phát hành sách Hà Nội trong cơ chế thị trường - 2

Đời sống xã hội có hai mặt: Vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, và với tính cách như vậy văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm chiếm ưu thế hiện nay coi mục tiêu phát triển là phải nâng cao chất lượng cuộc sống con người với đảm bảo sao cho có sự kết hợp hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa mức sống cao với lối sống và quan hệ xã hội tốt đẹp, không chỉ cho một số ít người mà cho toàn thể xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự phát triển cao về kinh tế, về cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ. Song chỉ như thế chưa đủ và rất không đúng nếu hiểu xây dựng kinh tế chỉ là tăng trưởng đơn thuần, tăng trưởng với bất kỳ giá nào, thậm chí hy sinh văn hóa, hy sinh phẩm giá con người. Nếu hiểu như thế là hoàn toàn xa lạ với lý tưởng XHCN của chúng ta. Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố quan trọng và quyết định là nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng này nằm trong văn hóa, trong trí tuệ, đạo đức, nhân cách, tâm hồn, tài năng... của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Vì vậy, quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam là quá trình thực hiện chiến lược con người và phát huy nguồn lực con người - nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.

Kinh tế thị trường và mở cửa với bên ngoài làm sống động nền kinh tế và các hoạt đông xã hội, phát triển giao lưu hàng hóa, du lịch và các sản phẩm văn hóa, giúp nhân dân ta mở rộng chân trời hiểu biết và kiến thức tiếp nhận từ bốn phương. Điều dễ nhận thấy trong sự thay đổi này là tính năng động xã hội - kinh tế và tính tích cực của công dân được khơi dậy và phát huy thay thế cho tâm lý thụ động ỷ lại trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước. Không khí dân chủ cởi mở trong xã hội được nâng cao, năng lực cá nhân của con người được khuyến khích, tôn trọng.


Văn hóa bắt nguồn từ yếu tố nguồn lực con người. Con người là chủ thể, là linh hồn của sự sáng tạo, là nhân tố hàng đầu của văn hóa. Hội nghị liên Chính phủ về chính sách văn hóa vì sự phát triển do UNESCO tổ chức tại Xtốckhôm (Thụy Điển) đã khẳng định: "Sự sáng tạo văn hóa là động lực tiến bộ của loài người; Sự đa dạng của văn hóa là kho tàng quý báu nhất của nhân loại và là một yếu tố cần thiết của sự phát triển" [Dẫn theo 42, tr. 51]. Quan điểm đó đã góp phần khắc phục được cách nhận thức của một số người chỉ nhấn mạnh vai trò của kinh tế, coi văn hóa thuộc loại phi sản xuất, là lĩnh vực thứ yếu, là hoạt động đứng ngoài kinh tế, văn hóa sống được là nhờ vào trợ cấp của Nhà nước và ăn theo kinh tế, chịu sự quy định một cách đơn giản của kinh tế ít chú ý đến các giá trị và vai trò của văn hóa.

Thực tiễn ngày càng giúp chúng ta nhận thức đầy đủ hơn vị trí vai trò của văn hóa trong phát triển. Sự hiểu biết và trí tuệ do con người tích lũy được, cùng đạo lý tốt đẹp trong mối quan hệ của con người và cộng đồng, với tự nhiên được bồi đắp nên suốt chiều dài lịch sử, là các thành tố cấu thành văn hóa, làm nên nền tảng tinh thần xã hội, giữ vai trò cực kỳ quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Như sự nhấn mạnh về văn hóa được đưa ra trong Hội nghị liên Chính phủ về chính sách văn hóa do UNESCO tổ chức tại Thụy Điển trong thời gian gần đây: "Sự phát triển của xã hội chính là sự phát triển của văn hóa;và sự thăng hoa của văn hóa là đỉnh cao nhất của sự phát triển" [Dẫn theo 42, tr. 51].

Văn hóa là thuộc tính bản chất của con người, văn hóa dùng để chỉ đặc điểm và nhân tố nhân tính, nhân văn chung của loài người, văn hóa có trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào của con người:kinh tế, chính trị, nghiên cứu, giao tiếp, lao động, sáng tạo nghệ thuật, kinh doanh... (ta thường nói văn hóa chính trị, văn hóa giao tiếp, văn hóa lao động, văn hóa thương mại, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa kinh doanh...).

Có thể văn hóa không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, nhưng với chức năng quan trọng hàng đầu của văn hóa là chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, sức mạnh và hiệu quả của văn hóa là ở chỗ nó có thể huy động được toàn bộ các năng lực tinh thần của con người và tác động tới chiều sâu trong đời sống tinh thần của con người. Do vậy,


văn hóa đồng nghĩa với trí tuệ, đạo đức, lương tâm... Đó là hệ thống các giá trị Chân - Thiện - Mỹ thúc đẩy con người sáng tạo vật chất và tinh thần. Nếu quên đi yếu tố văn hóa sớm muộn ở đó sẽ lụi bại không chỉ về lương tâm, đạo đức mà còn lụi bại cả về kinh tế nữa.

Qua các phân tích trên có thể thấy định nghĩa của UNESCO về văn hóa như một quan niệm phổ biến về văn hóa: "Văn hóa là tổng thể sống động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra trong quá khứ và cũng đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình" (Federico -Mayor -1988) [Dẫn theo 17. tr. 52].

1.2. quan niệm về văn hóa kinh doanh


1.2.1. Quan niệm về kinh doanh


Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của con người xuất hiện cùng với kinh tế hàng hóa và thị trường, ngay từ thời cổ đại đã có tầng lớp những người làm nghề kinh doanh hay còn gọi doanh nhân. Kinh doanh bao gồm nhiều hình thức khác nhau: Buôn bán (thương mại), sản xuất, dịch vụ, thông tin, tư vấn,... Xét về lịch sử kinh doanh thương mại thì mua bán, trao đổi và lưu thông hàng hóa là loại kinh doanh xuất hiện đầu tiên và có liên quan đến sản xuất và trao đổi hàng hóa. Xét từ góc độ công nghệ - kỹ thuật thì kinh doanh là một quá trình bao gồm nhiều công đoạn khác nhau như đầu tư, sản xuất, marketing, dịch vụ bảo hành... Đó là một hệ thống hoạt động gồm nhiều chuyên ngành nghiệp vụ như: quản trị kinh doanh, công nghệ và kỹ thuật sản xuất, chất lượng, mua hàng, bán hàng, kế toán tài chính, tư vấn bảo hành... Các dạng hoạt động trên đều có chủ thể hoạt động với các nghề nghiệp chuyên môn. Mục đích của kinh doanh, với tư cách là một nghề, hay là một hoạt động đều nhằm đem lại lợi ích cho chủ thể là người kinh doanh. Vì vậy, Luật doanh nghiệp Việt Nam đưa ra định nghĩa kinh doanh từ đặc điểm bản chất của nó như sau: "Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi" [22, tr. 7-8].


Mục đích chính của kinh doanh là kiếm lời, là đem lại lợi nhuận cho người kinh doanh hay còn gọi là chủ thể kinh doanh. Chủ thể kinh doanh bao gồm các cá nhân, tổ chức, doanh nhân có hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa trên thị trường. Khách thể kinh doanh là những khách hàng của chủ thể bao gồm người tiêu dùng trực tiếp và gián tiếp và cả những nhà kinh doanh khác trong mối quan hệ bạn hàng hoặc cùng hợp tác kinh doanh. Trong mối quan hệ đó, người tiêu dùng (khách thể) giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Họ là trung tâm của thị trường, là người quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc vào sức mua của người tiêu dùng nên người kinh doanh phải căn cứ vào nhu cầu, thị hiếu, sở thích của khách hàng để cung cấp cho họ một lượng hàng hóa hay dịch vụ nào đó nhằm thu lại một lượng tiền với mức lợi nhuận nhất định. Vì vậy việc quyết định sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng có chấp nhận hàng hóa, sản phẩm đó hay không.

Như vậy, kinh doanh không trái với phục vụ nhưng đây là sự phục vụ có mục đích vì lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất phát triển ngày càng cao hơn và các dịch vụ kèm theo sản phẩm cũng được chú trọng hơn. Trong nền kinh tế thị trường thì kinh doanh cần cho cuộc sống cũng như cuộc sống cần cho kinh doanh. Kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Vấn đề là kinh doanh như thế nào? Kinh doanh bằng cách nào? Đấy là nội dung của vấn đề văn hóa trong kinh doanh kinh doanh có văn hóa.

1.2.2. Văn hóa trong kinh doanh và kinh doanh có văn hóa


1.2.2.1. Văn hóa trong kinh doanh


Bản thân hoạt động kinh doanh thương mại là một hoạt động văn hóa, bởi nó đáp ứng nhu cầu hưởng thụ hay thưởng thức của con người. Và khi con người là đối tượng hưởng thụ văn hóa chân chính cũng là con người đích thực của xã hội biết phân biệt cái đúng, cái sai, phải, trái, trắng, đen trong những điều mình đang hưởng thụ thưởng thức về văn hóa.


Chính yêu cầu cao về chất lượng và ngày càng nhiều về số lượng của người tiêu dùng đã kích thích sự sáng tạo vô biên, sự cố gắng không mệt mỏi của các doanh nhân, doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh.

Yếu tố văn hóa trong kinh doanh chính là hoạt động đem cái đẹp, cái tiện lợi tới mọi nhà. Không thỏa mãn với những gì có hôm nay các nhà thiết kế mỹ thuật, nhà sản xuất kinh doanh đã không ngừng cải tiến mẫu mã, ứng dụng những thành tựu lớn nhất của khoa học và công nghệ vào quá trình chế tạo sản phẩm và đội ngũ các nhà thương nghiệp không quản ngại đường sá xa xôi đưa sản phẩm tới nơi tiêu thụ, từng bước hình thành mạng lưới kinh doanh xuyên quốc gia, xuyên lục địa và cũng từ hoạt động này thúc đẩy xã hội tiến lên theo hướng văn minh, hiện đại.

Văn hóa trong kinh doanh còn biểu hiện mối quan hệ giữa người bán và người mua. Người mua có quyền lựa chọn sản phẩm mà mình có nhu cầu với những chỉ tiêu về chất lượng, số lượng hàng hóa, phong cách phục vụ. Người bán cố bày tỏ lòng hiếu khách, tôn trọng người mua, bởi họ hiểu rằng, chính khách hàng là ân nhân, là sự sống của doanh nghiệp trên thương trường. Còn nhà sản xuất coi sự thành đạt trong kinh doanh là nguyên nhân chính đưa đến sự phát triển sản xuất, nên họ cũng rất tôn trọng quan hệ mua bán trên thị trường.

Chính việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh có thể làm lành mạnh hóa quan hệ xã hội, bởi nó thúc đẩy quá trình phát triển của xã hội. Lợi nhuận do kinh doanh đem lại tạo nên tiềm lực kinh tế, khoa học - kỹ thuật cho quốc gia và mỗi đơn vị, cá nhân tham gia kinh doanh, từ đó mọi người thông cảm và hiểu biết nhau hơn, có điều kiện để sống có văn hóa hơn trong sự điều tiết có tính khách quan của cơ chế thị trường năng động. Văn hóa trong kinh doanh là cơ sở để điều tiết mọi mối quan hệ trong kinh doanh. Tuy nhiên, phải nhìn nhận yếu tố văn hóa trong kinh doanh một cách dung dị và chấp nhận phản đề của sự kiện. Bởi lẽ, mục đích kiếm lời của mọi hoạt động kinh doanh là như nhau, nếu thua lỗ thì không thể tồn tại, do đó xuất hiện các nghệ thuật kinh doanh, thủ đoạn kinh doanh vừa có tính hướng thiện, vừa có tính cạnh tranh quyết liệt để tồn tại và phát triển. Do đó, yếu tố văn hóa và phản văn hóa tiềm ẩn trong mỗi nhà kinh doanh. Vấn đề ở chỗ,


nhà kinh doanh nào thực tài thì có đối sách thích hợp để gặt hái thành công trên thương trường. Ai có trí có lực thì vượt qua những biến động ghê gớm khó lường trước được của thị trường và vươn lên. Lúc này yếu tố văn hóa trong kinh doanh chính là bản lĩnh của người kinh doanh. Nhiều tấm gương thành đạt của doanh nhân nổi tiếng đã chứng minh điều đó.

Phạm trù văn hóa trong kinh doanh chính là nỗ lực chủ quan của người kinh doanh, họ thực sự đã đóng góp công sức cho sự tiến bộ xã hội. Song cũng chính họ nếu không đủ tài lực, nhân trí sẽ có hành vi phản văn hóa trong kinh doanh. Do đó, điều tiết mối quan hệ này chính là các hoạt động nhân văn với sự chi phối của gia đình, truyền thống dân tộc, thể chế nhà nước (quốc gia) và các chuẩn mực quốc tế hướng tới sự tiến bộ của xã hội.

1.2.2.2. Kinh doanh có văn hóa


Hoạt động kinh doanh diễn ra trên khắp thế giới, cả trong thời chiến và thời bình với nhiều quy mô và hình thức khác nhau. Có thể nói một cách hình ảnh rằng cả thế giới như một cái chợ, chỗ này buôn bán lương thực, thực phẩm, chỗ kia buôn bán văn hóa phẩm, chỗ khác buôn bán vũ khí... Bởi lẽ tất cả các nơi đó đang diễn ra quá trình thỏa mãn nhu cầu của mối quan hệ cung - cầu, mua - bán, trao đổi. Cái khác nhau cơ bản của hoạt động kinh doanh nhìn dưới góc độ văn hóa chính là "đối tượng" và "phương thức" của quá trình kinh doanh trên thị trường.

Trong phạm trù "kinh doanh có văn hóa" yếu tố cái thiện, cái ác là thước đo giữa văn hóa và phản văn hóa, giữa văn minh và man rợ mà biểu hiện của phạm trù này chính là vật được đem đi trao đổi giữa kẻ bán và người mua.

Nói đến kinh doanh là nói đến việc đầu tư cho việc sản xuất buôn bán phân phối hàng hóa và dịch vụ nhằm mục đích kiếm tìm lợi nhuận tối đa, thu được lợi nhuận để từ đó tái đầu tư, đảm bảo lợi ích cho người kinh doanh và người lao động, nhờ đó doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được.


Người ta có thể kiếm lợi nhuận bằng nhiều cách khác nhau nhưng thực tế phát triển hàng trăm năm của nền kinh tế thị trường trên thế giới cũng như nền kinh tế thị trường còn rất mới mẻ ở Việt Nam cho thấy có hai cách thức kinh doanh cơ bản sau:

Cách kinh doanh thứ nhất xuất phát từ mục đích cho rằng kinh doanh là kinh doanh: lợi nhuận là mục tiêu tối thượng trong kinh doanh. Không cần đạo đức người ta cạnh tranh bằng mọi giá, tìm kiếm lợi nhuận bằng sự bóc lột quá sức người lao động, khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, làm hàng giả, hàng kém chất lượng, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo, đầu cơ... Để đạt được lợi nhuận tối đa họ có thể dùng mọi biện pháp mánh khóe xấu xa, thậm chí đe dọa tính mạng người khác. Đây là cách kiếm tiền biểu hiện sự tồi tệ của giới kinh doanh chụp giật, vô đạo đức, thiếu văn hóa, phản tự nhiên. Họ coi đồng tiền là trên hết, giẫm đạp lên lương tâm, nghĩa vụ, danh dự, coi thường lợi ích của người khác và của xã hội. Đối với họ chuẩn mực đạo đức của văn hóa kinh doanh không gì khác ngoài tư lợi.

Kiểu kinh doanh như trên chỉ làm cho nền kinh tế lâm vào tình trạng vô chính phủ, tạo ra hiểm họa đe dọa sự tồn tại, phát triển của thị trường, đe dọa sinh tồn của người tiêu dùng và ngay bản thân lợi nhuận của nhà kinh doanh. Cách kiếm lợi nhuận này không thể tồn tại lâu bền do sự thiển cận và sai lầm của bản thân và nhận được sự phán quyết của xã hội. Mặt khác, khi đạt được tới lợi nhuận tối đa, nhà kinh doanh chưa hẳn đã đạt được hạnh phúc. Thực tế cho thấy không ít nhà kinh doanh giàu có, sở hữu một tài sản kếch sù mà vẫn thấy bất hạnh bởi tình cảm giữa con người cạn kiệt, gia đình bất ổn, đạo đức suy đồi, sa ngã vào tệ nạn xã hội. Đây chính là yếu tố báo trước nguy cơ hủy hoại nền tảng của chính xã hội mà họ đang sống. Theo ông Kim Woo Choong, nguyên Chủ tịch tập đoàn Daewoo, một trong những tập đoàn kinh doanh lớn nhất Hàn Quốc thì: "Người nào ít tiền biết cách sử dụng của cải vì lợi ích của người khác mới là người giàu có và hạnh phúc thực sự" [2, tr. 5].

Qua đó chúng ta thấy rằng, ý nghĩa của cuộc sống con người nói chung và của nhà kinh doanh nói riêng không chỉ ở sự giàu có mà quan trọng hơn là giá trị văn hóa đạo đức và nhân văn.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 16/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí