Nâng Cao Hơn Nữa Năng Lực Cạnh Tranh Của Các Nhtm


+ Đối với công cụ tái cấp vốn: NHNN cần hoàn thiện công cụ này theo hướng thực hiện vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn, NHNN cung ứng phương tiện thanh toán cho các NHTM và thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng. Quy chế tái cấp vốn cần được tiếp tục hoàn thiện, quy định rõ hình thức tái cấp vốn (tái chiết khấu, cho vay có đảm bảo bằng các giấy tờ có giá ngắn hạn…). Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cần được điều chỉnh ngày càng linh hoạt hơn trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Bổ sung hình thức cho vay/nhận tiền gửi qua đêm là một hình thức tái cấp vốn của NHNN.

+ Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: NHNN cần có những giải pháp hoàn thiện công cụ này theo hướng hạn chế tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để kiểm soát lượng tiền trong lưu thông4 và khuyến khích các TCTD sử dụng vốn linh hoạt và hiệu quả. Theo đó, NHNN cần xem xét không trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc và trả lãi cho tiền dự trữ bắt buộc. Quyết định số 923/QĐ-NHNN ra ngày 20/7/2004 đã quy định trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc và không trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ

bắt buộc bằng VND. Tuy nhiên, dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lại được trả lãi cho phần vượt mà không trả lãi cho phần dự trữ bắt buộc, khuyến khích các ngân hàng duy trì tỷ lệ dự trữ ngoại tệ cao. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được điều chỉnh linh hoạt, phối hợp đồng bộ với việc điều chỉnh đối với các công cụ khác của TTTT.

- Thứ hai, NHNN cần thiết lập thể chế phối hợp giám sát để chủ động phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong phát triển và hội nhập của thị trường tiền tệ.

Cần khẳng định, khi hội nhập quốc tế thì vấn đề đảm bảo an ninh tài chính rất khó khăn, phức tạp. Do vậy, cùng với việc thực thi chính sách điều tiết thận trọng, buộc các ngân hàng phải thực hiện các nguyên tắc có tính chuẩn mực quốc tế, cần phải tăng cường năng lực giám sát (đảm bảo các bộ phận giám sát có đầy đủ quyền lực, thực hiện giám sát minh bạch, công bằng và khách quan) thiết lập thể chế phối hợp giám sát giữa Bộ Tài chính và NHNN để nắm chắc tình hình, chủ động phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh.

NHNN cũng cần phải phối hợp với các cơ quan quản lý thị trường xây dựng


4 Do sử dụng công cụ này sẽ làm tăng chi phí huy động vốn, nên hiện nay các nước có xu hướng hạn chế sử dụng công cụ này mà thay vào đó là sử dụng nghiệp vụ thị trường mở (OMO)


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.

một hệ thống thông tin thị trường thống nhất, phù hợp với trình độ nhận thức, khả năng tiếp cận của doanh nghiệp và người dân. Đảm bảo tính công khai và minh bạch của các chính sách, làm cơ sở cho các nhà đầu tư giảm thiểu những rủi ro chính sách trong từng thời kỳ, tạo cơ sở cho TTTT phát triển ổn định, bền vững.

- Thứ ba, NHNN cần tăng cường đào tạo nguồn nhân lực.

Vai trò của nhà nước trong việc phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam - 23

NHNN cần tăng cường đào tạo, đào tạo lại để xây dựng một đội ngũ cán bộ đủ mạnh về kiến thức có thể phân tích, dự báo kịp thời những biến động của thị trường trong nước và quốc tế, để NHNN có thể chủ động trong việc điều tiết cung cầu vốn của thị trường, đảm bảo lãi suất, tỷ giá trên thị trường biến động ổn định, sát mục tiêu điều hành.

3.2.1.3. Nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của các NHTM

Các NHTM luôn là chủ thể quan trọng nhất tham gia vào TTTT, do đó, việc tạo ra hệ thống NHTM vững mạnh, có hiệu quả, có sức cạnh tranh cao có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp phát triển TTTT Việt Nam, hội nhập quốc tế. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam, cần có các giải pháp sau:

-Trước hết, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo hướng giảm thiểu số lượng, nâng cao chất lượng của hệ thống NHTM.

Như chương 2 đã phân tích, hiện nay số lượng các NHTM ở Việt Nam là quá nhiều trong một thị trường còn tương đối nhỏ hẹp nên đã gây ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh và nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng là rất lớn. Do vậy, NHNN cần đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo hướng giảm thiểu số lượng, nâng cao chất lượng của hệ thống NHTM. Việc cơ cấu lại trước hết bắt đầu từ việc cần hết sức thận trọng trong việc cho thành lập mới các ngân hàng. Mạnh dạn sắp xếp lại các NHTM cổ phần theo hướng thanh lý, giải thể những ngân hàng yếu kém, sáp nhập những ngân hàng nhỏ không đủ vốn pháp định vào những ngân hàng lớn để hình thành các tập đoàn tài chính - ngân hàng đủ lớn. Đối với các NHTMCP nhỏ kinh doanh kém hiệu quả có thể được các ngân hàng khác mua lại hoặc cho giải thể, phá sản.

Bên cạnh việc cơ cấu lại hệ thống các NHTM cổ phần, cần phải phát triển một số NHTM Việt Nam theo mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng đa năng trên cơ sở lựa chọn một số NHTM có quy mô lớn, đầu tư công nghệ hiện đại, mạng lưới rộng khắp, mối quan hệ khách hàng truyền thống mật thiết, đặc biệt có uy tín cao.


- Thứ hai, nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành cho các NHTM Việt Nam.

Để nâng cao năng lực tài chính, các NHTM có thể sử dụng các biện pháp tăng vốn như: sử dụng nguồn lợi nhuận để lại, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, sáp nhập, hợp nhất, mua lại. Cụ thể:

+ Sử dụng nguồn lợi nhuận hằng năm để tăng vốn là biện pháp tăng vốn tốt nhất. Vì vậy các ngân hàng nên xác định rõ mục tiêu tăng trưởng tài sản hàng năm và quyết định tỷ lệ lợi nhuận giữ lại. Các ngân hàng phải bổ sung vốn đủ mức an toàn tối thiểu, trong thời gian chưa bổ sung đủ vốn, ngân hàng không được mở rộng quy mô hoạt động.

+ Sử dụng nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu tăng vốn. Cần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các NHTMNN còn lại, theo hướng cho phép các đối tác chiến lược nước ngoài mua cổ phần của NHTMNN để tranh thủ công nghệ và kỹ năng quản lý hiện đại, nhằm nâng vốn tự có của NHTMNN lên theo tiêu chuẩn quốc tế. Đối với các NHTMCP, chủ động chọn thời điểm và hình thức tăng vốn trên cơ sở minh bạch thông tin hoạt động và kết quả kinh doanh để đẩy nhanh tiến độ tham gia niêm yết cổ phiếu trên TTCK.

Để nâng cao năng lực quản trị điều hành cho các NHTM Việt Nam, Nhà nước cần phải tạo ra cơ chế:

+ Giảm sự can thiệp mang tính hành chính của Chính phủ vào hoạt động tín dụng của các NHTM: hạn chế việc khoanh nợ, xóa nợ cho các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước khi muốn hỗ trợ doanh nghiệp có thể sử dụng biện pháp khác.

+ Tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng NHTM trên cơ sở phân biệt chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM. Bảo đảm quyền tự quyết và tự chủ kinh doanh của các NHTM. Việc này cũng tạo điều kiện cho việc giám sát, đánh giá hoạt động kinh doanh của các cơ quan quản lý đối với các NHTM đồng thời nằm trong cam kết của Việt Nam với các tổ chức quốc tế về tách bạch tín dụng chính sách với tín dụng NHTM

+ Có những biện pháp giải quyết tích cực nợ xấu của các NHTM. Giải quyết triệt để các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng thông qua Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của các doanh nghiệp (DATC), hoặc tạo điều kiện để các NHTM chuyển các


khoản nợ đó thành cổ phần của ngân hàng tại doanh nghiệp. Ngoài ra, đẩy mạnh việc thành lập thêm và mở rộng phát triển các loại hình công ty mua bán nợ, thúc đẩy hoạt động mua bán nợ giữa các ngân hàng nhằm đa dạng hóa các hoạt động tín dụng và giúp các ngân hàng thu hồi vốn cũng như khai thác, sử dụng tài sản tồn đọng có hiệu quả. Bên cạnh đó, để giải quyết triệt để tình trạng nợ xấu cần xem xét lại quá trình, thủ tục cho vay để đảm bảo an toàn khi cho vay.

+ Cần khuyến khích các NHTM tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và phòng ngừa rủi ro. Kinh doanh trong lĩnh vực tài chính thường xuyên gặp rủi ro, tuy nhiên, cho tới nay, phần lớn các NHTM ở Việt Nam chưa thực sự chủ động ngăn ngừa rủi ro, chỉ đến khi đã xảy ra rủi ro thì mới tìm biện pháp giải quyết, khắc phục. Do đó, Nhà nước nên khuyến khích các NHTM ở Việt Nam cần chú trọng hơn đến việc phát triển hệ thống thông tin quản lý và các biện pháp phòng tránh rủi ro. Cần tăng cường kiểm tra định kỳ tình hình kinh doanh của doanh nghiệp cũng như kiểm tra giá trị bảo đảm khoản vay qua giá trị thị trường của tài khoản đảm bảo. Đồng thời cũng phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ tổ chức để tránh tình trạng thoái hóa của cán bộ, nhân viên dẫn đến vi phạm các nguyên tắc kinh doanh.

- Thứ ba, thúc đẩy đa dạng hóa các loại hình dịch vụ của các NHTM

Các dịch vụ của các NHTM trong nước còn rất ít và đơn điệu không thể đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Đây là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM. Do đó, Nhà nước cần khuyến khích các NHTM tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: trong huy động vốn, trong cấp tín dụng, tài trợ xuất nhập khẩu, dịch vụ thanh toán, thẻ, thu hộ chi hộ, giữ hộ, ủy thác, ngân hàng điện tử..., mở rộng mạng lưới đại lý, đặc biệt là phát triển nghiệp vụ bán lẻ. Các sản phẩm dịch vụ tài chính không chỉ cần phong phú về chủng loại mà còn phải liên tục được cải tiến về chất lượng đồng thời với việc nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ, nhân viên.

3.2.1.4 Áp dụng chuẩn mực quốc tế phù hợp trong giám sát hoạt động của các NHTM

Hiện nay, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, được thành lập theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ đã đi vào hoạt động. Tuy nhiên các nội dung về hoạt động giám sát vẫn còn nhiều vấn đề cần được


tiếp tục nghiên cứu để từng bước hoàn thiện. Trong quá trình hoàn thiện nội dung hoạt động cần chú ý:

- Đảm bảo sự nhất quán và nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN thông qua việc thực hiện đầy đủ một chu trình gồm 4 khâu: Cấp phép; Ban hành quy chế; Thực hiện giám sát (giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ); Xử phạt và thu hồi giấy phép.

- Đổi mới phương pháp giám sát theo CAMELS5. Theo cách này, thanh tra viên sẽ xếp hạng các ngân hàng thành 5 nhóm theo các tiêu chí như: tính đủ vốn, chất lượng tài sản có, chất lượng quản lý và hoạt động, thu nhập, tính thanh khoản, độ nhạy với rủi ro. Đây được coi là cầu nối để giúp NHNN Việt Nam chuyển đổi phương pháp giám sát theo hướng tiến tới phương pháp giám sát hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Hoàn thiện quy trình giám sát với sự kết hợp của hai bộ phận chính là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ của Cơ quan Thanh tra, giám sát của NHNN.

3.2.1.5 Tạo điều kiện thuận lợi để thành lập và phát triển các công ty môi giới trên TTTT.

TTTT với đặc điểm là thị trường bán buôn vốn ngắn hạn, lượng thông tin ra vào thị trường là rất lớn và thường xuyên đòi hỏi phải có những thành viên hoạt động chuyên nghiệp trên thị trường. Ở Việt Nam hiện nay, vẫn còn thiếu vắng các công ty môi giới làm trung gian bôi trơn các hoạt động trên thị trường. Các chủ thể tham gia thị trường khi có nhu cầu giao dịch vốn không có đủ và kịp thời các thông tin cần thiết để tiến hành giao dịch một cách có lợi nhất, nhiều khi làm ách tắc thông tin của thị trường. Vì vậy, việc thành lập loại hình công ty môi giới hoạt động trên TTTT giúp cho thị trường hoạt động thông suốt và chuyên nghiệp hơn.

Trong lộ trình hội nhập, môi giới tiền tệ cũng là một nội dung quan trọng trong các cuộc đàm phán để Việt Nam gia nhập WTO và cả trong những quan hệ hợp tác song phương. Việc ban hành Quy chế về môi giới tiền tệ cũng là một yêu cầu được quy định trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ



5 Phương pháp giám sát theo chỉ tiêu CAMELS dựa trên 6 yếu tố cơ bản được sử dụng để đánh giá hoạt động của một ngân hàng, đó là : Mức độ an toàn vốn, Chất lượng tài sản có, Quản lý, Lợi nhuận, Thanh khoản và Mức độ nhạy cảm thị trường (viết tắt bằng tiếng Anh là CAMELS).


Ngày 7/4/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ra quyết định ban hành Quy chế về môi giới tiền tệ. Đây là một bước quan trọng trong việc xây dựng hành lang pháp lý để tiến tới thành lập những công ty có chức năng và trách nhiệm rõ ràng trong môi giới. Trước mắt nên thiết lập một công ty môi giới tiền tệ, dưới hình thức công ty liên doanh giữa các NHTM lớn, có uy tín với một số công ty môi giới nước ngoài, hoặc công ty 100% vốn trong nước thuộc các NHTMNN. Hiện tại chưa nên cho phép các NHTM nhỏ và các tổ chức phi ngân hàng tham gia vì tính chưa ổn định về uy tín của họ. Công ty môi giới này đăng ký theo Luật doanh nghiệp và được NHNN cấp giấy phép hoạt động. Khi TTTT phát triển đến một mức nhất định thì số lượng công ty này sẽ tăng dần, mạng lưới môi giới sẽ tự động phát triển theo như là một tất yếu của thị trường.

3.2.1.6 Hoàn thiện và phát triển các công cụ của TTTT

Để phát triển TTTT nước ta cần phải củng cố, hoàn thiện các công cụ thị trường đã có như: tín phiếu Kho bạc, tín phiếu NHNN, kỳ phiếu ngân hàng, đồng thời phải tạo ra thêm các công cụ mới phù hợp với trình độ phát triển của TTTT.

Tín phiếu Kho bạc:

Tín phiếu Kho bạc là công cụ được sử dụng chủ yếu trên TTTT hiện nay do độ rủi ro thấp nên rất được ưa chuộng, đồng thời cũng là công cụ tạo nguồn bù đắp thâm hụt Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, công cụ này còn có những hạn chế, cần có biện pháp để hoàn thiện:

- Tổ chức đấu thầu thường xuyên hơn nhằm giúp các NHTM, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp có kế hoạch đầu tư chủ động, đồng thời đảm bảo cung cấp cho thị trường một lượng tín phiếu đủ lớn, làm phát sinh và nuôi dưỡng các giao dịch mua đi bán lại. Tuy nhiên quy mô phát hành phải đặt trong mối quan hệ nhu cầu của Ngân sách Nhà nước, hiệu quả kinh tế tổng thể giữa vay ở thị trường nội địa và vay từ nước ngoài. Điều này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNN và Bộ Tài chính để quyết định lượng tín phiếu phát hành.

- Nên phát hành tín phiếu Kho bạc với nhiều thời hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 1 năm để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.

- Lãi suất của tín phiếu Kho bạc nên được tự do hóa theo biến động cung cầu vốn trên thị trường. Cần có sự kết hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN trong việc đưa


ra cơ sở để xác định lãi suất của tín phiếu. Để đạt được mục tiêu này, cần giảm việc sử dụng lãi suất chỉ đạo trong các phiên giao dịch của thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc cũng như trong nghiệp vụ thị trường mở.

- Hạn chế phát hành tín phiếu Kho bạc ghi danh, mở rộng phát hành tín phiếu Kho bạc vô danh có thể chuyển nhượng để tăng tính thanh khoản của công cụ này.

Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước:

Sau tín phiếu Kho bạc, tín phiếu NHNN là công cụ có độ rủi ro thấp. Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu NHNN chỉ nên áp dụng trong điều kiện lạm phát cao, hoặc để hỗ trợ cho các công cụ khác, vì nó thường mang tính chất bắt buộc đối với các NHTM. Để phát huy tác dụng trong điều hành CSTT, NHNN cần phải:

- Phát hành tín phiếu NHNN ghi sổ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển nhượng chúng.

- Cải tiến và thực hiện thể thức mua lại thuận lợi thông qua phương thức tái cấp vốn, tái chiết khấu ngắn hạn để khuyến khích các ngân hàng mua tín phiếu thay vì hình thức bắt buộc.

Các giấy tờ có giá ngắn hạn do các tổ chức tín dụng phát hành:

Các giấy tờ có giá ngắn hạn ở đây bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi… mà chủ yếu là chứng chỉ tiền gửi. Nhìn chung giấy tờ có giá là những công cụ có tính thanh khoản cao, có thể chuyển nhượng tự do trên thị trường, song ở nước ta, công cụ này hầu như chưa thể chuyển nhượng được, trừ một số kỳ phiếu của NHTM Nhà nước. Do vậy, cần có biện pháp để cải thiện công cụ này phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế:

- Cần phải chuẩn hóa các quy định về hình thức, nội dung, kỳ hạn, lãi suất của các giấy tờ này để tạo điều kiện cho việc phát hành, giao dịch và thanh toán trên thị trường, cho phép người sở hữu chúng được bán trước hạn nhằm tăng tính thanh khoản cho công cụ này.

- Đa dạng hóa các loại chứng chỉ tiền gửi như loại lãi suất cố định, loại lãi suất thả nổi, loại lãi suất chiết khấu, chứng chỉ tiền gửi ngoại tệ để tạo ra sự phong phú, đa dạng các công cụ cho TTTT và tăng khả năng thu hút vốn cho các ngân hàng.

- Nới lỏng quy định về phát hành chứng chỉ tiền gửi, cho phép các tổ chức tín dụng được phát hành công cụ này khi đáp ứng được các điều kiện cần thiết.


Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm đảm bảo an toàn cho người nắm giữ.

- Cần tạo ra một sân chơi bình đẳng và trao quyền hạn hoàn toàn cho các ngân hàng trong việc phát hành chứng chỉ tiền gửi. Hiện nay, mặc dù trong Luật các tổ chức tín dụng cho phép tất cả các ngân hàng đều được phát hành chứng chỉ tiền gửi, nhưng trong thực tế việc phát hành đối với từng ngân hàng lại phụ thuộc vào sự phê chuẩn của Nhà nước. Điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút thêm nguồn vốn vào hệ thống ngân hàng, cản trở việc phát triển nguồn vốn khả dụng cho TTTT và đi ngược lại xu thế chung về tự do hóa tài chính.

Thương phiếu:

Thương phiếu là một công cụ rất phổ biến trên thế giới song ở Việt Nam hầu như vẫn chưa được sử dụng nhiều. Để có thể đưa thương phiếu vào hoạt động, dần trở thành công cụ được chấp nhận trên TTTT, cần phải:

- Sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật các công cụ chuyển nhượng để sớm áp dụng công cụ thương phiếu trên thị trường, hướng dẫn việc phát hành, lưu thông của thương phiếu cũng như quy định về hiệu lực pháp lý của thương phiếu, các mức phạt cụ thể và các cơ quan đứng ra xử lý các tranh chấp đối với các vi phạm về thương phiếu để đảm bảo sự an toàn cho những người nắm giữ thương phiếu. Các văn bản này phải đồng bộ và nhất quán.

- Nhanh chóng tiến hành xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp để các ngân hàng có cơ sở đứng ra đảm bảo bằng thư tín dụng, tạo điều kiện cho các nhà phát hành tham gia vào thị trường thương phiếu.

Hợp đồng mua lại:

Hợp đồng mua lại là công cụ được sử dụng nhiều nhất, hiệu quả nhất trên TTTT thế giới. Ở nước ta, công cụ này chỉ mới được đưa vào sử dụng nên phạm vi sử dụng hẹp, chủ yếu chỉ được thực hiện trong nghiệp vụ thị trường mở giữa NHNN và các tổ chức tín dụng. Để phát triển công cụ này trong tương lai, cần xây dựng các quy định về hợp đồng mua lại:

- Thời hạn hợp đồng mua lại và giá mua lại hợp đồng do hai bên tự thỏa thuận, ở Việt Nam thời hạn chỉ nên áp dụng là 30 ngày.

- Quyền lợi của người được chuyển nhượng: người được chuyển nhượng có

Xem tất cả 217 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí