Những Khó Khăn, Tồn Tại Trong Việc Lựa Chọn Và Sử Dụng Trung Gian Thương Mại


Bảng 8.

Tình hình xuất khẩu hàng TCMN vào Hoa Kỳ qua các phương thức ở Artexport Hà Nội

Đơn vị: 1000 USD


Phương

thức


2000


2001


2002


2003


2004


2005


2006

XK uỷ

thác


29,94


42,30


62,19


65,81


82,21


116,16


135,27

KNXK

407,32

519,68

758,40

1.052,90

1.427,35

1.636,12

1.850,42

Tỷ trọng

(%)


7,35


8,14


8,02


6,25


6,04


7,10


7,31

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Trung gian thương mại trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào Hoa Kỳ - 11

(Nguồn: Phòng TC - KH công ty Artexport)

2. Những khó khăn, tồn tại trong việc lựa chọn và sử dụng trung gian thương mại

Hiện tại việc sử dụng trung gian thương mại trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào Hoa Kỳ đang gặp phải những bất cập sau:

2.1. Khó khăn trong việc lựa chọn, sử dụng trung gian thương mại

Trong hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào Hoa Kỳ nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp không ít khó khăn trong việc lựa chọn và sử dụng trung gian thương mại nên đã phát sinh nhiều tranh chấp không đáng có, làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh. Nguyên nhân của vấn đề trên là:

- Nguồn thông tin về các trung gian thương mại cung cấp cho các doanh nghiệp rất nghèo nàn. Đây cũng là tình trạng chung mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào Hoa Kỳ gặp phải trong các lĩnh vực có liên quan. Chính vì thế, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện chương trình quốc gia về xúc tiến thương mại với hy vọng có thể giúp ích cho các doanh nghiệp càng nhiều thông tin càng tốt.


- Hợp đồng ký kết với trung gian thương mại thiếu chặt chẽ, còn nhiều sơ hở, dễ bị đối tác nước ngoài lợi dụng.

- Các doanh nghiệp Việt Nam thiếu hiểu biết về trung gian thương mại, nên đã sử dụng chưa đúng với những gì mà họ cần thiết.

- Các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa thật hiểu biết về luật pháp các nước có liên quan đến trung gian thương mại.

2.2. Khó khăn trong khi làm trung gian thương mại cho nước ngoài

Khả năng tiếp nhận dịch vụ trung gian thương mại cho các hãng nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam cũng bị hạn chế. Sở dĩ có tình trạng trên là do các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém về nhiều mặt: vốn, kỹ thuật, công nghệ, năng lực kinh doanh… Để giải quyết được các vấn đề bức xúc nói trên không phải ngày một, ngày hai mà phải có thời gian lâu dài, và phải có các giải pháp đồng bộ.


2.3. Quản lý hoạt động của trung gian thương mại

Việc quản lý, giám sát hoạt động của người trung gian thương mại là việc làm không mấy dễ dàng. Nhiều hợp đồng ủy thác bán hàng đã bị người trung gian o ép, hàng giao không bán được, hay bán câu dầm, tiền hàng thu không đủ hay dây dưa kéo dài. Ngay trong nội bộ các doanh nghiệp, hiện tượng “chung chi” các khoản tiền của doanh nghiệp với các nhà trung gian cũng đã xảy ra. Vì vậy phải có các biện pháp mạnh cả về pháp lý và về kinh tế để khắc phục tình trạng trên. Do không khống chế được hoạt động của trung gian thương mại nên nhiều tiêu cực đã phát sinh. Hiện tượng bên cạnh các công ty nhà nước đang hoạt động, nhiều công ty tư nhân có ngành nghề tương tự, do một số lãnh đạo các công ty nhà nước lập ra để nhận ủy thác những công việc có khả năng thu lợi nhuận cao đang là một hiện tượng khá phổ biến. Rất nhiều hợp đồng ủy thác và những hợp đồng qua môi giới thương mại xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang Hoa Kỳ không quản lý được, gây thất thu thuế.


III. NHỮNG BẤT CẬP TRONG VIỆC TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG GIAN THƯƠNG MẠI TRONG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG‌

MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM VÀO HOA KỲ

1. Mô hình tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp làm trung gian thương mại

Trừ một số công ty nhà nước, còn lại phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các công ty vừa và nhỏ - SME. Trong số các công ty vừa và nhỏ, lượng hoạt động chuyên doanh rất ít và chủ yếu là kinh doanh tổng hợp. Nếu đọc trong những danh mục ngành nghề kinh doanh của các công ty này chúng ta có thể thấy không ít công ty kinh doanh hàng chục ngành nghề, do đó trên thị trường trong và ngoài nước, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam đã diễn ra rất mạnh. Điều đó làm cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các trung gian thương mại nói chung và kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào Hoa Kỳ nói riêng gặp rất nhiều khó khăn.

1.1. Khả năng thích ứng về nguồn vốn

Do quy mô nguồn vốn ban đầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là nhỏ nên có thể dùng vốn cá nhân, vốn của các thành viên sáng lập. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, vốn ban đầu chỉ cần vài chục triệu. Cá biệt có doanh nghiệp chỉ cần vài triệu đồng như ở các ngành nghề truyền thống… Ở vùng nông thôn, đầu tư cho một chỗ làm khoảng 5-6 triệu đồng. Do khả năng huy động vốn kém nên đã không ít các doanh nghiệp lợi dụng vốn của nhau một cách bất hợp pháp.

1.2. Khả năng thích ứng về lao động

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần quan trọng vào việc tạo việc làm, thu nhập và đảm bảo đời sống cho người lao động. Ở các nước phát triển cũng như đang phát triển, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 97 - 98% trong tổng số doanh nghiệp cả nước và đã thu hút tới 2/3 lực lượng lao động công nghiệp (từ 62 - 76% tổng lao động). Ở nước ta, từ sau năm 1986, vấn đề giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao động đã được đặt ra. Hàng triệu lao động cần việc làm đã được giải


quyết. Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển rất nhanh, thu hút lao động dôi dư, tạo sự ổn định xã hội.

Lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể vừa học, vừa làm. Đây là việc làm vừa đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong việc sử dụng lao động, nhưng cũng để lại hậu quả không nhỏ khi sử dụng các lao động không được đào tạo một cách chính quy, bài bản, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu.

1.3. Khả năng thích ứng về kỹ thuật

Khả năng này của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất đa dạng. Với doanh nghiệp in nhãn bao bì, chỉ cần một cỗ máy in hiện đại, lắp đặt gọn gàng trên diện tích khoảng 5 - 10 m2 đã có thể cho sản phẩm đạt chất lượng cao và số lượng thỏa mãn nhu cầu. Với doanh nghiệp lắp ráp điện tử lại cần mặt bằng rộng, vệ sinh công nghiệp tốt, công

nhân có tay nghề cao và làm việc theo dây chuyền. Những doanh nghiệp làm nghề chạm khắc hiện nay có thể áp dụng khoa học tiên tiến vào như lập trình thiết kế mẫu mã, đồng thời họ có thể tận dụng các lao động thủ công, cả tinh xảo và đơn giản… Còn trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận, vận tải, môi giới, đại lý…, họ chỉ cần một vài bộ máy vi tính, máy fax với vài ba người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm là đã có thể giao dịch trên phạm vi toàn thế giới. Do vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể kết hợp cả công nghệ hiện đại với tay nghề truyền thống.

1.4. Các khó khăn của các doanh nghiệp trung gian thương mại

Tuy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những ưu điểm về sự năng động, khả năng tạo nhanh và nhiều việc làm, đã đạt được một số kết quả ban đầu về xuất khẩu, đóng góp ngân sách, nhưng nhìn chung hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này mới chỉ đạt ở mức độ thấp, chưa tương xứng với tiềm năng. Theo số liệu điều tra của các chuyên gia Đan Mạch về các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ kinh doanh tại các địa phương Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Phú Thọ, Long An, Quảng Nam và thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có trên 10% số doanh nghiệp sản xuất hết năng lực và trên 20% sản xuất dưới 50% khả năng. Bên cạnh đó, sự ra đời của doanh nghiệp còn thiếu


tính ổn định, bền vững. Những hạn chế này cũng chính là khó khăn đối với các doanh nghiệp, xuất phát từ những tồn tại về mặt chủ quan của doanh nghiệp, cũng như về mặt khách quan của cơ chế quản lý, hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

1.4.1.Những tồn tại về mặt chủ quan của doanh nghiệp

a. Trình độ quản lý yếu kém, nhân viên thiếu kỹ năng, thiếu kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ.

Đây chính là hạn chế đầu tiên về mặt chủ quan của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này thường hoạt động với mục tiêu hướng nội, trong phạm vi không gian nhỏ bé (nhiều khi chỉ giới hạn trong một xã, huyện). Phần lớn các kỹ năng sản xuất, kinh doanh được truyền trong phạm vi gia đình theo kiểu kèm cặp chứ không được đào tạo một cách bài bản chính quy. Doanh nghiệp không đủ khả năng thuê chuyên gia có trình độ cao đảm trách các nhiệm vụ quan trọng. Nhiều trường hợp chủ doanh nghiệp phải tự làm tất cả mọi công việc quản lý doanh nghiệp, từ lập kế hoạch kinh doanh tổng hợp, quản lý về tiếp thị, bán hàng, tài chính, sản xuất, vận hành và nhân sự. Sản xuất kinh doanh mang nặng tính thủ công, trình độ quản lý yếu kém, trình độ tay nghề của thợ và công nhân thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực.

Giáo dục và đào tạo là một bài toán thách thức với các nước đang phát triển, có mức thu nhập trung bình và thấp như nước ta. Muốn đầu tư nhưng không có tiền, mặt khác, nếu không đầu tư đúng mức, nguy cơ tụt hậu càng cao, gây hậu quả trực tiếp đối với nền kinh tế đất nước.

b. Bối cảnh cạnh tranh quốc tế đang diễn ra gay gắt, song các doanh nghiệp Việt Nam còn tụt hậu về quản lý và công nghệ.

Việc đổi mới cơ chế quản lý khoa học công nghệ, một khâu then chốt để đẩy mạnh sự phát triển khoa học công nghệ, làm chưa được nhiều. Sự gắn kết giữa nghiên cứu khoa học công nghệ với sản xuất kinh doanh chưa trở thành cơ chế hoạt động thường xuyên. Hoạt động khoa học công nghệ chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách Nhà nước. Chính vì vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ. Hạn chế về vốn cũng cũng khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp


nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trường quốc tế trong lĩnh vực công nghệ, máy móc, thiết bị. Phần lớn các doanh nghiệp do thiếu vốn đã nhập máy móc thiết bị có công nghệ kỹ thuật không cao, công nghệ thế hệ cũ, đã qua sử dụng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng thiết bị, công nghệ lạc hậu từ 20 - 50 năm so với các nước trong khu vực làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm - sản phẩm có giá trị công nghiệp thấp, hàm lượng chất xám ít, giá trị thương mại kém hơn so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.

Báo cáo cạnh tranh kinh tế toàn cầu năm 2003 về năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế trên thế giới đã khảo sát đối với 102 nước, trong đó Việt Nam xếp hạng cạnh tranh thứ 73. Năm 2006, Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã xếp Việt Nam ở vị trí 77 trên tổng số 125 quốc gia về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tụt hạng 3 bậc so với năm 2005.

Điều này đã cho thấy tính cấp bách của vấn đề nghiên cứu đổi mới và phát triển công nghệ ở Việt Nam.

Đây là một thực trạng đáng báo động. Trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ trung gian thương mại, hàng loạt các doanh nghiệp ra đời đã tạo sự cạnh tranh gay gắt giữa lòng các doanh nghiệp. Ngoài ra, do khó khăn về nhiều mặt, các doanh nghiệp Việt Nam không đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, sự đổi mới công nghệ, trang bị các phương tiện quản lý mới đang là những đòi hỏi cấp bách hiện nay.

c. Sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ còn lỏng lẻo.

Điều này cũng dẫn đến chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp của cả doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, sự liên kết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các Viện nghiên cứu, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp dạy nghề còn yếu kém, tự phát, không đáp ứng được nhu cầu và khả năng thực tế của các bên, vì thế hạn chế khả năng phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.


d. Khả năng tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp nhiều khó khăn.

Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không xác lập được kênh bán hàng, các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa phải cạnh tranh với sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp lớn trong nước, vừa phải cạnh tranh với một lượng lớn dịch vụ có chất lượng cao của các công ty nước ngoài. Ngoài ra, các mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp vừa và nhỏ mới chỉ giới hạn ở các sản phẩm nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ… là những mặt hàng mang tính truyền thống; một số các mặt hàng mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có tiềm năng như may mặc, giày dép… vẫn chủ yếu là gia công, giá trị gia tăng thấp. Trong lĩnh vực hoạt động trung gian thương mại cũng vậy. Những hạn chế về tính cạnh tranh của sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất phát từ những nguyên nhân chính là:

Chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thấp hơn so với dịch vụ của các doanh nghiệp nước ngoài, vì trình độ công nghệ thấp, năng suất lao động thấp do không được đào tạo và thiếu kinh nghiệm quản lý hiện đại.

Xuất phát từ hạn chế về công nghệ, cụ thể ở đây là công nghệ thông tin nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu thông tin về thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời cũng không có cơ hội quảng bá thông tin của doanh nghiệp mình cho khách hàng trong nước và quốc tế. Theo thống kê của Tổng cục thống kê về chỉ tiêu ứng dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp, số các doanh nghiệp có máy tính, có mạng cục bộ, có kết nối Internet, có giao dịch thương mại điện tử, có website chiếm tỷ lệ rất nhỏ, và bản thân số lượng phương tiện hỗ trợ thông tin này cũng rất ít. Chính vì lẽ đó mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội kinh doanh phù hợp với tiềm năng của mình.

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu thông tin, đặc biệt là thông tin kinh doanh, như thiếu thông tin về thị trường đầu vào (thị trường vốn, thị trường lao động thị trường nguyên vật liệu, thị trường thiết bị dây chuyền công nghệ); thiếu thông tin về môi trường kinh doanh (hệ thống pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật


có liên quan của các nước đối tác muốn mở rộng thị trường), thiếu thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Để cải thiện sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ, các doanh nghiệp cần tổ chức lại, nhất là đổi mới quản lý, đổi mới kỹ thuật công nghệ, giảm thiểu chi phí, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, cải tiến kiểu dáng phù hợp với thị hiếu liên tục thay đổi của người tiêu dùng, cải tiến hoạt động khuyến mại, tiếp thị, quảng cáo…

1.4.2.Những tồn tại về mặt khách quan

a. Về nhận thức.

Mặc dù Đảng và Nhà nước đã khẳng định chính sách nhất quán nhằm phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng trong quá trình vận dụng vào thực tế vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu thuộc thành phần kinh tế tư nhân, ở nhiều địa phương còn bị kì thị, phân biệt đối xử trong các quan hệ giao dịch về đất đai, mặt bằng sản xuất, vay vốn, đổi mới công nghệ và trang thiết bị, thông tin về thị trường… Ngoài ra, sự ghi nhận xã hội và sự tôn trọng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn ở mức thấp.

b. Còn thiếu một môi trường pháp lý thuận lợi và công bằng cho các doanh nghiệp trung gian thương mại.

-Ở thị trường trong nước

Môi trường pháp lý thuận lợi sẽ tạo ra cơ sở pháp lý cho sự cạnh tranh hợp pháp, lành mạnh cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong tiến trình hội nhập, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật.

Pháp luật kinh doanh ở nước ta tuy đã có những bước phát triển quan trọng nhưng vẫn còn nhiều nhược điểm như: chưa đầy đủ, qui định chưa thông thoáng hoặc chưa rõ ràng, trong nhiều trường hợp diễn giải khác nhau hoặc còn mâu thuẫn, gây khó khăn cho việc thực hiện. Do đó, cần phải nhanh chóng hoàn thiện, đồng bộ hệ thống pháp luật kinh doanh, khẩn trương xây dựng và hoàn thiện Luật Thương mại, Luật cạnh tranh và chống độc quyền, Luật chống bán phá giá, Luật bảo hộ người tiêu dùng,

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 15/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí