Nguồn Tài Chính Đầu Tư Cho Các Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập


11


lớn đến tổ chức kế toán trong các đơn vị SNCL. Điều này đã được chứng minh qua thực tiễn thực hiện cơ chế quản lý tài chính của các đơn vị SNCL như sau:

- Cơ chế quản lý tài chính theo năm dự toán là cơ chế truyền thống được áp dụng trước năm 2002. Theo cơ chế quản lý này căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao và các tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước, các đơn vị SNCL lập dự toán thu chi theo năm; tổ chức thực hiện dự toán tuyệt đối tuân thủ các tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước trong phạm vi dự toán được duyệt; quyết toán dự toán theo cơ chế này phải tuân thủ theo các mục chi của mục lục NSNN tương ứng với từng nội dung chi, các khoản chi không hết phải nộp lại NSNN hoặc giảm trừ dự toán vào năm sau trừ trường hợp đặc biệt.

- Cơ chế tự chủ tài chính được hình thành trên quan điểm đơn vị sử dụng tài chính được điều hành một cách linh hoạt thay thế cho cơ chế quản lý tài chính năm mà lâu nay nhà nước áp đặt cho các đơn vị SNCL. Đến nay, hoạt động của các đơn vị SNCL được tuân thủ theo quy định của Nghị định 43/2006/NĐ-CP ban hành ngày 25/4/2006 về việc “Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị SNCL”, và Nghị định 16/2015/NĐ-CP “Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập”. Theo đó, thì quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm được trao cho đơn vị SNCL trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động. Cho tới nay, trong nhiều lĩnh vực mặc dù Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đã được ban hành nhưng do chưa có hướng dẫn thực hiện Nghị định này trong nhiều lĩnh vực nên các đơn vị SNCL chưa có hướng dẫn, đang thực hiện theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP. Theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, các đơn vị SNCL không chỉ có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế mà còn có quyền tự chủ về tài chính trong quá trình hoạt động của đơn vị SNCL được tổng hợp theo 5 nội dung sau [10]:

- Tự chủ về các khoản thu, mức thu: Đơn vị SNCL được quyết định các khoản thu, mức thu theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lǜy. Đối với hoạt động thu phí, lệ phí và sản phẩm, dịch vụ nhà nước đặt hàng đơn vị thực hiện theo mức thu


12


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.

hoặc khung mức thu và đơn giá sản phẩm do nhà nước quy định.

- Tự chủ về huy động vốn: Đơn vị SNCL có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các tổ chức tín dụng; được huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.

Tổ chức kế toán tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương I - 3

- Tự chủ về sử dụng nguồn tài chính: Đơn vị SNCL chủ động sử dụng nguồn kinh phí NSNN cấp bảo đảm hoạt động thường xuyên, nguồn thu sự nghiệp để hoàn thành nhiệm vụ được giao; Đối với đơn vị SNCL tự bảo đảm toàn bộ chi phí, đơn vị SNCL tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động được quyết định các mức chi quản lý, chi nghiệp vụ thường xuyên cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do nhà nước quy định.

- Để chủ động sử dụng nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên được giao đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, đơn vị xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ làm căn cứ để cán bộ, viên chức thực hiện và KBNN thực hiện kiểm soát chi.

- Tự chủ về sử dụng kết quả hoạt động tài chính trong năm: “đơn vị SNCL tự bảo đảm toàn bộ chi phí, đơn vị SNCL tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động được trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, trả thu nhập tăng thêm cho người lao động và trích lập Quỹ phúc lợi, Quỹ khen thưởng, Quỹ dự phòng ổn định thu nhập; đơn vị SNCL do NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động được chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động, chi khen thưởng, chi phúc lợi, chi tăng cường cơ sở vật chất, chi lập Quỹ dự phòng ổn định thu nhập”.

1.1.3.2. Nguồn tài chính đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp công lập

Theo Nghị định 16/2015/NĐ-CP thì nguồn tài chính của các đơn vị SNCL bao gồm [10]:

- Nguồn NSNN cấp: Kinh phí đảm bảo hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng nhiệm vụ; Kinh phí thực hiện chi nhiệm vụ không thường xuyên theo quy định: thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình, dự án, đề án, kinh phí đối ứng thực hiện các dự án theo quyêt định của cấp có thẩm quyền, đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết bị, kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất do cơ quan có thẩm quyền giao.

- Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp công bao gồm nguồn ngân sách nhà nước đặt hàng cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, nguồn thu phí, lệ phí.

- Nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định của pháp luật.


13


- Nguồn thu khác theo quy định của pháp luật nếu có [10].

1.1.3.3. Quy trình lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán ngân sách tại

các đơn vị sự nghiệp công lập

- Lập dự toán ngân sách

Lập dự toán ngân sách là quá trình phân tích, đánh giá giữa khả năng và nhu cầu các nguồn tài chính để xây dựng các chỉ tiêu ngân sách hàng năm một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Có hai phương pháp lập dự toán thường được sử dụng là phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ và phương pháp lập dự toán không dựa trên cơ sở quá khứ. Mỗi phương pháp lập dự toán trên có những đặc điểm riêng cùng những ưu, nhược điểm và điều kiện vận dụng khác nhau.

Phương pháp lập dự toán trên cơ sở quá khứ là phương pháp xác định các chỉ tiêu trong dự toán dựa vào kết quả hoạt động thực tế của kǶ liền trước và điều chỉnh theo tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát dự kiến. Phương pháp này rất rò ràng, dễ hiểu và dễ sử dụng, được xây dựng tương đối ổn định, tạo điều kiện, cơ sở bền vững cho nhà quản lý trong đơn vị trong việc điều hành mọi hoạt động.

Phương pháp lập dự toán không dựa trên cơ sở quá khứ là phương pháp xác định các chỉ tiêu trong dự toán dựa vào nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động trong năm kế hoạch, phù hợp với điều kiện cụ thể hiện có của đơn vị chứ không dựa trên kết quả hoạt động thực tế của năm trước. Đây là phương pháp lập dự toán phức tạp hơn do không dựa trên số liệu, kinh nghiệm có sẵn. Tuy nhiên, nếu đơn vị sử dụng phương pháp này sẽ đánh giá được một cách chi tiết hiệu quả chi phí hoạt động của đơn vị, chấm dứt tình trạng mất cân đối giữa khối lượng công việc và chi phí thực hiện, đồng thời giúp lựa chọn được cách thức tối ưu nhất để đạt được mục tiêu đề ra.

Khi lập dự toán ngân sách, các đơn vị SNCL phải phản ánh đầy đủ các khoản thu, chi theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành, kể cả các khoản thu, chi từ nguồn viện trợ. Trong quá trình lập dự toán ngân sách phải lập đúng mẫu biểu, thời gian theo đúng quy định và lập chi tiết theo mục lục ngân sách nhà nước (NSNN). Dự toán ngân sách của các đơn vị SNCL được gửi đúng thời hạn đến các cơ quan chức năng theo quy định của pháp luật.

- Chấp hành dự toán ngân sách

Chấp hành dự toán là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế tài


14


chính, hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong dự toán ngân sách của đơn vị thành hiện thực. Trên cơ sở dự toán ngân sách được giao, các đơn vị SNCL chủ động tổ chức triển khai thực hiện, đưa ra các biện pháp cần thiết đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ thu - chi được giao, đồng thời phải có kế hoạch sử dụng kinh phí ngân sách theo đúng mục đích, đúng chế độ, tiết kiệm và có hiệu quả. Để theo dòi quá trình chấp hành dự toán ngân sách, các đơn vị SNCL cần tiến hành tổ chức hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán để theo dòi chi tiết, cụ thể từng nguồn thu, từng khoản chi, quản lý quỹ lương, các quỹ và quản lý tài sản của đơn vị.

+ Chấp hành dự toán thu: Các đơn vị SNCL thực hiện nhiệm vụ thu đúng, thu đủ theo mức thu và đối tượng thu. Trong quá trình chấp hành dự toán thu các đơn vị phải coi trọng công bằng xã hội, đảm bảo thực hiện nghiêm túc các chính sách thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Đối với đơn vị có nhiều nguồn thu, cần có biện pháp quản lý thống nhất nhằm sử dụng các nguồn thu đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm. Muốn vậy các đơn vị phải tổ chức kế toán khoa học từ việc tổ chức hệ thống chứng từ ghi nhận các khoản thu, trên cơ sở đó tiến hành phân loại các khoản thu, ghi sổ kế toán và định kǶ lập các báo cáo tình hình huy động các nguồn thu.

+ Chấp hành dự toán chi: Song song với việc tổ chức khai thác các nguồn thu nhằm đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động, các đơn vị SNCL phải có kế hoạch theo dòi việc sử dụng các nguồn kinh phí đúng mục đích để hoàn thành nhiệm vụ được giao trên cơ sở minh bạch, tiết kiệm và hiệu quả. Trong cơ chế tự chủ tài chính, thước đo các khoản chi của đơn vị có chấp hành đúng dự toán hay không chính là quy chế chi tiêu nội bộ. Quy chế chi tiêu nội bộ là căn cứ để Thủ trưởng đơn vị điều hành việc sử dụng và quyết toán kinh phí hoạt động thường xuyên, là cơ sở pháp lý để KBNN kiểm soát chi. Những nội dung chi trong quy chế chi tiêu nội bộ đã có tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành thì phải thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước. Những nội dung chi cần thiết phục vụ cho hoạt động của đơn vị trong quy chế chi tiêu bộ nhưng Nhà nước chưa ban hành chế độ thì Thủ trưởng đơn vị có thể xây dựng mức chi cho từng nhiệm vụ, nội dung công việc trong phạm vi nguồn tài chính của đơn vị.

Như vậy đối với quản lý chi, các đơn vị SNCL phải quản lý một cách có hiệu


15


quả và tiết kiệm. Muốn vậy các đơn vị SNCL phải sử dụng đồng thời các biện pháp khác nhau, trong đó có tổ chức vận dụng hệ thống phương pháp kế toán để thu thập, ghi nhận, xử lý và cung cấp thông tin kịp thời các khoản chi theo từng nội dung chi, từng nhóm chi, mục chi và thường xuyên tổ chức phân tích, đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm, trên cơ sở đó đề ra biện pháp tăng cường quản lý chi.

+ Quản lý quỹ lương: Các đơn vị SNCL phải chấp hành đúng quỹ tiền lương được duyệt tương ứng với số cán bộ, viên chức được giao theo chỉ tiêu biên chế hàng năm. Nghiêm cấm việc sử dụng quỹ tiền lương cho các mục đích khác và ngược lại. Bên cạnh đó, việc chi trả quỹ tiền lương thực hiện đồng thời với việc trích nộp BHXH, BHYT, BHTN và các khoản trích nộp khác theo quy định. Việc lập dự toán, cấp phát và hạch toán quỹ tiền lương phải đúng mục lục NSNN. Việc cấp phát, thanh toán quỹ tiền lương ở các đơn vị SNCL phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan tài chính, cơ quan chủ quản và cơ quan KBNN.

+ Quản lý tài sản công trong đơn vị SNCL: Việc quản lý và sử dụng tài sản công tại các đơn vị SNCL phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, mọi tài sản nhà nước đều được Nhà nước giao cho đơn vị quản lý, sử dụng. Các đơn vị SNCL có quyền sử dụng, khai thác tài sản nhà nước theo đúng mục đích được giao, đảm bảo tiết kiệm, có hiệu quả.

Thứ hai, tài sản nhà nước phải được đầu tư, trang bị và sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, định mức, chế độ, bảo đảm công bằng, hiệu quả, tiết kiệm.

Thứ ba, tài sản nhà nước phải được hạch toán đầy đủ về hiện vật và giá trị theo quy định của pháp luật. Việc xác định giá trị tài sản trong quan hệ mua, bán, thuê, cho thuê, liên doanh, liên kết, thanh lý tài sản hoặc trong các giao dịch khác được thực hiện theo cơ chế thị trường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Mọi quan hệ trong giao dịch mua sắm, bán, thanh lý, thuê, cho thuê, liên doanh, liên kết được thực hiện theo cơ chế thị trường thông qua việc đấu thầu, đấu giá công khai theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, tài sản nhà nước được bảo dưỡng, sửa chữa, bảo vệ theo chế độ quy định và việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước được thực hiện công khai, minh bạch; mọi hành vi vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản nhà nước phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.


16


Như vậy, về mặt quản lý và tổ chức thì những nguyên tắc quản lý tài sản công có ảnh hưởng đáng kể đến tổ chức kế toán của các đơn vị SNCL từ khâu bắt đầu hình thành tài sản đến quản lý, sử dụng tài sản.

- Quyết toán thu - chi ngân sách.

Quyết toán thu - chi ngân sách là công việc cuối cùng của chu trình quản lý tài

chính. Đây là quá tĬnh kiểm tra, tổng hợp số liệu về tnh h nh chấp hành dự toán

trong kǶ và là cơ sở để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán từ đó rút ra

những bài học kinh nghiệm cho các kǶ tiếp theo. Để có thể tiến hành quyết toán thu

- chi, các đơn vị phải thực hiện lập các BCTC và BCQT ngân sách để nộp các cơ quan nhà nước và công khai theo quy định của pháp luật.

Số liệu trên sổ kế toán của đơn vị SNCL phải đảm bảo cân đối và khớp đúng với số liệu của cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước cả về tổng số và chi tiết, sau đó mới tiến hành lập báo cáo quyết toán năm.

Qua đó có thể thấy ba khâu công việc trong quản lý tài chính có quan hệ mật thiết với nhau và có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sử dụng các nguồn lực nhằm hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao. Muốn vậy các đơn vị phải có sự chủ động, linh hoạt trong hoạt động đồng thời với việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực. Điều này một mặt phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, chức năng, nhiệm vụ được giao, mặt khác phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, phương thức hoạt động, cǜng như cách thức tổ chức kế toán khoa học.

1.2. Khái quát chung về tổ chức kế toán

1.2.1. Khái niệm tổ chức kế toán

Kế toán - một trong những công cụ quản lý có hiệu lực được sử dụng trong các đơn vị để quản lý tài sản, quản lý quá trình tiếp nhận và sử dụng các nguồn kinh phí. Song để kế toán thực sự trở thành công cụ quản lý đắc lực ở các đơn vị SNCL, thì vấn đề tổ chức kế toán hợp lý và khoa học là một trong những tiền đề tiên quyết của các đơn vị. Tổ chức kế toán được coi là công việc tổ chức quản lý quan trọng trong quá trình thực hiện kế toán của mỗi tổ chức, nhằm giúp cho việc thu nhận, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin cho công tác điều hành mọi hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị. Mặt khác, tổ chức kế toán không đơn thuần là tổ chức một bộ phận quản lý trong đơn vị, mà còn bao hàm cả tính nghệ thuật trong việc xác lập các


17


yếu tố, điều kiện cǜng như các mối liên hệ qua lại tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kế toán, bảo đảm cho kế toán phát huy tối đa các chức năng vốn có của mình.

Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về tổ chức kế toán trong các đơn

vị SNCL, song có thể tóm tắt thành một số quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất: “Tổ chức hạch toán kế toán là việc thiết lập mối quan hệ giữa các đối tượng và phương pháp hạch toán để ban hành chế độ kế và tổ chức vận dụng chế độ kế toán trong thực tế tại đơn vị kế toán cơ sở” [18, tr.9].

Quan điểm thứ hai: “Tổ chức kế toán là việc thiết lập mối quan hệ giữa các phương pháp hạch toán kế toán (Phương pháp chứng từ, phương pháp tài khoản, phương pháp tính giá, phương pháp tổng hợp cân đối kế toán) trong từng nội dung hạch toán cụ thể nhằm phản ánh, chính xác, kịp thời tình hình tài sản và các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị” [23, tr.192].

Quan điểm thứ ba: “Tổ chức kế toán là việc tổ chức vận dụng các phương pháp kế toán để liên kết các yếu tố cấu thành, các công việc của kế toán nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ của kế toán trong đơn vị” [16, tr.11]. Tổ chức kế toán ở đơn vị là tổ chức việc thu nhận, hệ thống hóa và cung cấp thông tin về hoạt động của đơn vị. Tổ chức kế toán trong đơn vị phải giải quyết được hai phương diện: Tổ chức thực hiện các phương pháp kế toán, các nguyên tắc kế toán, và các phương pháp, phương tiện tính toán nhằm đạt được mục đích của công tác kế toán và tổ chức bộ máy kế toán nhằm liên kết các nhân viên kế toán thực hiện tốt công tác kế toán trong đơn vị.

Nếu quan điểm thứ nhất mới chỉ nêu được tổ chức kế toán là việc thiết lập mối quan hệ giữa đối tượng kế toán và các phương pháp kế toán mà chưa chỉ ra phương pháp kế toán là những phương pháp nào thì quan điểm thứ hai đã khắc phục và chỉ rò rằng tổ chức kế toán là thiết lập các mối quan hệ giữa các phương pháp kế toán đó là phương pháp chứng từ; phương pháp tài khoản; phương pháp tính giá; phương pháp tổng hợp cân đối kế toán nhưng vẫn còn chung chung, chưa thể hiện vai trò của tổ chức bộ máy trong khái niệm.

Quan điểm thứ ba đã chỉ ra rằng tổ chức kế toán là việc tổ chức thực hiện các

phương pháp kế toán để liên kết các yếu tố cấu thành để thực hiện tốt các nhiệm vụ


18


của kế toán, quan điểm này vẫn còn chung chung chưa nói lên các yếu tố tổ chức trong bộ máy kế toán. Theo quan điểm này các yếu tố cấu thành cần phải liên kết chưa được chỉ ra.

Nhìn chung, các quan điểm đều cho rằng tổ chức kế toán được coi là công việc tổ chức quản lý quan trọng trong quá trình thực hiện công tác kế toán của mỗi tổ chức, nhằm giúp cho việc thu nhận, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin cho công tác điều hành mọi hoạt động kế toán tài chính của đơn vị. Mặt khác, trong thời đại khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì không thể thiếu việc tổ chức ứng dụng CNTT vào trong thực thi công việc kế toán. Theo đó, tổ chức kế toán là phải tổ chức tốt ở tất cả các nội dung trên.

Từ những phân tích nêu trên, tác giả cho rằng: “Tổ chức kế toán được coi như là một hệ thống các yếu tố cấu thành, bao gồm tổ chức vận dụng các phương pháp kế toán để thu nhận, xử lý, phân tích, kiểm tra và cung cấp các thông tin; tổ chức vận dụng chính sách, chế độ, thể lệ kinh tế tài chính, kế toán vào đơn vị; tổ chức các nhân sự để thực hiện công việc kế toán nhằm đảm bảo cho công tác kế toán phát huy hết vai trò, nhiệm vụ của mình, giúp công tác quản lý và điều hành hoạt động của đơn vị có hiệu quả”.

1.2.2. Yêu cầu và nguyên tắc của tổ chức kế toán

Tổ chức kế toán có chất lượng hiệu quả là cơ sở để cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ, trung thực, khách quan, hợp lý về tình hình tài sản, công nợ, nguồn kinh phí, tình hình và kết quả hoạt động tài chính của đơn vị kế toán,phù hợp với quy định pháp luật kế toán hiện hành và các quy định khác của pháp luật khác có liên quan; cung cấp đầy đủ, kịp thời, minh bạch, phục vụ cho việc ra các quyết định kinh tế của nhà quản trị và những cá nhân tổ chức bên ngoài có liên quan.

Trong thực tế với những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau như sự yếu kém về năng lực, chuyên môn do sự hạn chế hiểu biết về pháp luật, sự mới mẻ và phức tạp của các giao dịch, sự mâu thuẫn về lợi ích nhóm... thông tin do kế toán cung cấp luôn có khả năng tồn tại nhữn sai phạm với các mức độ khác nhau. Vì vậy để đảm bảo thông tin kế toán cung cấp đầy đủ, kịp thời, minh bạch, rò ràng đáng tin cậy, tổ chức kế toán cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:

Tổ chức kế toán phải đảm bảo yêu cầu khoa học và hợp lý, trên cơ sở chấp

Xem tất cả 171 trang.

Ngày đăng: 14/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí