Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam - 2

hội tiếp cận với hoạt động sinh lợi và tạo điều kiện cho những người cần số tiền nhỏ vẫn có thể vay được vốn. Ngay cả những người có vốn hoặc cần vốn với số lượng lớn cũng có lợi vì họ sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận với các kênh dẫn vốn. Thêm vào đó, không phải ai cũng có thể hoặc cũng muốn sử dụng những sản phẩm của thị trường tài chính, vì nhiều lý do khác nhau mà họ chỉ có thể hoặc chỉ muốn đầu tư số vốn nhàn rỗi của mình, hoặc là vay mượn vốn thông qua các trung gian tài chính. Nếu không có các trung gian tài chính, thì thị trường tài chính sẽ không thể mang lại lợi ích trọn vẹn cho các chủ kinh tế. Các trung gian tài chính còn là cần thiết vì nó có thể có được những chi phí thong tin và chi phí giao dịch lớn trong quá trình lưu chuyển vốn mà chỉ có nó mới giải quyết được; vì nó có một đội ngũ chuyên nghiệp đánh giá rủi ro để có những biện pháp hữu hiệu trong tài trợ vốn. Các trung gian tài chính có thể liên kết với nhau trong hoạt động tài trợ vốn, tạo điều kiện dễ dàng cho sự vận động của vốn có hiệu quả. Do sự ra đời và phát triển của các trung gian tài chính làm hình thành các quan hệ TD có tính chuyên nghiệp.

Trong thực tế, quan hệ TD có thể được diễn ra trực tiếp giữa chủ có vốn với chủ cần vốn. Nhưng hai chủ này không thể khi nào cũng gặp được nhau để giải quyết nhu cầu về vốn, xác định số lượng vốn, thời gian cho vay và sử dụng vốn, và nếu có gặp được nhau thì cũng phải mất nhiều thời gian và chi phí tìm kiếm. Để thoả mãn được nhu cầu của cả hai bên, cần thiết phải có một bên thứ ba đứng ra làm cầu nối. Công việc của bên này là tập trung tất cả số vốn của những người tạm thời thừa hoặc cần đầu tư kiếm lãi, rồi phân phối nó cho các nhu cầu đầu tư dưới hình thức cho vay. Đây chính là các tổ chức TD có tính chuyên nghiệp.

Theo nghĩa thông thường, TD là một sự tín nhiệm lẫn nhau. Hay nói cách khác, đó là lòng tin, là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Dưới góc độ kinh tế chính trị, TD là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật theo những điều kiện mà hai bên cùng thỏa thuận. Nó được thực hiện thông qua sự vận động của vốn với các giai đoạn:

- Giai đoạn phân phối vốn TD dưới hình thức cho vay. ở giai đoạn này, vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hóa được chuyển từ tay người cho vay sang tay người đi vay.

- Giai đoạn sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất. ở giai đoạn này, vốn vay được sử dụng trực tiếp (nếu vay bằng hàng hóa) hoặc được sử dụng để mua hàng hóa (vay bằng tiền) để thỏa mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của người đi vay. Tuy nhiên, người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị đó, mà chỉ có quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định.

- Giai đoạn hoàn trả vốn TD. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của TD. Nghĩa là sau khi hoàn thành một chu kỳ sản xuất T - H - T để trở về với hình thái tiền tệ thì vốn TD được người vay hoàn trả lại người cho vay. Hoàn trả là một đặc điểm của TD và là cơ sở để phân biệt nó với các phạm trù kinh tế khác.

Sự hoàn trả của TD là quá trình quay trở về với tư cách là một lượng giá trị được vận động. Sự hoàn trả luôn luôn phải được đảm bảo giá trị và có phần tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Trong trường hợp có lạm phát, sự hoàn trả về mặt giá trị cũng phải được tôn trọng thông qua cơ chế điều tiết bằng lãi suất.

C. Mác cho rằng:

Tiền được bỏ ra với tư cách là tư bản, có đặc tính là quay trở về tay người đã bỏ tiền ra, về tay người đã chi nó ra với tư cách là tư bản, vì H – T – H’ là hình thái nội tại của sự vận động tư bản, nên chính vì vậy người sở hữu tiền mới có thể đem tiền cho vay với tư cách là tư bản, nghĩa là đem tiền cho vay với tư cách là một vật có đặc tính là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó mà vẫn giữ nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm lên trong quá trình vận động [16, tr.534].

Tiền được đem cho vay như vậy, nghĩa là có sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Đó chính là TD.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Thực chất, TD là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay một khoản tiền thông qua sự vận động của giá trị. Vốn TD được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được chuyển từ tay người cho vay sang người đi vay trong một thời gian nhất định rồi quay về người chủ cho vay với lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Hay nói cách khác, TD là một phạm trù của nền kinh tế thị trường, phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ sở hữu với chủ sử dụng đối với các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả đúng kỳ hạn và kèm theo lợi tức.

Đến nay, ở nước ta cũng như các nước trên thế giới, đã có nhiều hình thức TD khác nhau.

Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam - 2

- Nếu căn cứ vào phương thức thực hiện các quan hệ TD theo đối tượng, TD có các hình thức chủ yếu sau: TD thông qua vốn hàng hoá, TD thông qua vốn tiền tệ và TD vốn tài sản.

+ TD thông qua vốn hàng hoá (còn gọi là TD thương mại) là hình thức mua bán chịu hàng hoá đến kỳ hạn mới thanh toán, kèm theo lợi tức. Nó được thực hiện thông qua các công cụ kỳ phiếu hoặc hối phiếu thương mại. Đây là hình thức khá phổ biến trong kinh tế thị trường.

+ TD thông qua vốn tiền tệ (gồm TD NH, TD nhà nước và TD tập thể) được thực hiện thông qua các trung gian tài chính. Ví dụ, TDNH được thực hiện thông qua các NH bao gồm NHTM, NH thực hiện các chính sách xã hội. NHTM bao gồm NH Công thương, NH Ngoại thương, NH Đầu tư và phát triển, NHNo&PTNT... TD tập thể là hình thức tự nguyện góp vốn của những thành viên để cho nhau vay, hoặc góp vốn cùng kinh doanh, được thực hiện thông qua các tổ chức TD hợp tác (NH hợp tác xã, quỹ TD nhân dân, hợp tác xã TD...).

+ TD thông qua vốn tài sản là TD được tồn tại dưới dạng cho thuê tài sản tài chính (trung hạn, ngắn hạn). Khi hết thời hạn thuê, khách hàng có thể thuê tiếp hoặc mua lại theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng.

- Nếu căn cứ vào tính chất pháp lý, thì TD có hai hình thức: TD chính thức và TD không chính thức.

+ TD chính thức là hình thức TD được pháp luật thừa nhận. Loại TD này được thực hiện thông qua các tổ chức: NHTM nhà nước, NH nước ngoài, NH liên doanh, NH cổ phần, hợp tác xã TD và các tổ chức trung gian tài chính khác.

+ TD không chính thức là hình thức TD “ngầm” không được luật pháp thừa nhận. Hình thức này ra đời và tồn tại gắn liền với lịch sử phát triển của kinh tế hàng hóa thường diễn ra giữa các cá nhân (người có nhu cầu TD) và các nhân (người cho vay nặng lãi) hoặc người bán chịu (TD thương mại trong nhân dân). Đến nay ở nước ta, hình thức TD này vẫn tồn tại tương đối phổ biến ở nông thôn nước ta dưới các dạng cho vay bằng tiền lãi suất cao (15 - 30%/năm), cho vay bằng vàng, cho vay thóc theo vụ 1 thùng (10kg) = 1,4 thùng/ vụ (ở Bắc Bộ) hoặc 1 công = 2 giạ lúa/vụ (ở Nam Bộ), cho vay bằng phân (1

bao urê cuối vụ trả 10 - 12 giạ lúa), bán lúa non (lãi 30 - 50%), cho vay "nóng" theo ngày (lãi suất 1%/ngày)...

Trong các nền kinh tế kém phát triển, do sản xuất hàng hóa còn ở giai đoạn đầu, có nhiều yếu tố sơ khai, nên để duy trì mức sống bình thường tối thiểu cần thiết, người ta có thể đi vay với bất cứ hình thức nào và với mức lãi suất là bao nhiêu cũng phải chấp nhận. Hình thức này ngăn cản sự phát triển của sản xuất. ở nước ta, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn nhiều yếu tố lạc hậu, khi hệ thống TD chính thức không đáp ứng nổi nhu cầu đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, thì đây là miếng đất màu mỡ cho kênh TD “ngầm” hoạt động, mặc dù cho vay nặng lãi có những hạn chế nhưng xét cho cùng nó cũng có những đóng góp tích cực để giải quyết vấn đề vốn cho hộ sản xuất nông nghiệp và các hộ trong hoạt động kinh tế ở nông thôn.

Trong hai hình thức trên, TD chính thức là nguồn cung ứng vốn lớn nhất và dần dần chiếm lĩnh thị trường nông thôn mà NHNo&PTNT là nòng cốt. Hình thức này đang hoạt động mạnh mẽ và thực sự mang lại lợi ích cho các hộ kinh doanh nông nghiệp và các hộ hoạt động kinh tế khác ở nông thôn.

TD chính thức được phân chia thành 3 loại theo đối tượng thực hiện TD gồm: 1) TD thông qua vốn tiền tệ (TD NH, TD nhà nước và TD tập thể); 2) TD thông qua vốn hàng hóa (hay còn gọi là TD thương mại) và 3) TD thông qua vốn tài sản (cho thuê tài sản tài chính trung hạn và dài hạn).

TDNH là một loại hình TD dụng chính thức. Nó là quan hệ kinh thế dưới hình thức tiền tệ, hàng hoá và dịch vụ giữa một bên là NH và một bên là các tổ chức kinh tế, xã hội và dân cư theo nguyên tắc hoàn trả đúng kỳ hạn và kèm theo lợi tức. Trong hình thức này, ngân hàng đóng vai trò trung gian giữa chủ cho vay và chủ đi vay trên thị tr- ường nhằm đáp ứng cầu vốn cho các hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân.

TDNH được thực hiện thông qua trung gian tài chính là các NH. Nó bao gồm NHTM và NH thực hiện chính sách xã hội. NHTM gồm có NHNo&PTNT, NH Công thương nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Ngoại thương... Đây là hình thức chủ yếu để huy động vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.

TD NHNo&PTNT là một hình thức trung gian tài chính thuộc hệ thống ngân hàng thương mại. Khác với các hình thức trung gian tài chính khác, hoạt động của hình

thức này là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng phục vụ cho hoạt động của kinh tế nông nghiệp và khu vực nông thôn với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của các tổ chức cá nhân có vốn, sử dụng vốn này để cấp TD cho những tổ chức, cá nhân cần vốn, và cung ứng các dịch vụ thanh toán nhằm mục đích thu lợi nhuận.

ở nước ta, TD NHNo&PTNT so với các hình thức TDNH, có sự ra đời chậm hơn. Theo tinh thần Nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ngày 26 tháng 3 năm 1988, Vụ Tín dụng Nông nghiệp thuộc NH nhà nước Việt Nam đã được phân tách để thành lập NH Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Đây chính là tiền thân của NHNo&PTNT Việt Nam. Ngay từ khi được thành lập, NH Phát triển Nông nghiệp đã được xác định là NHTM giữ vai trò chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài chính nông thôn với nhiệm vụ tiếp tục đầu tư TD thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá.

Lúc đầu, hoạt động của loại TD này hầu như chỉ đơn nhất là TD theo cơ chế bao cấp, hoạt động TD phải cho vay theo chỉ định và theo kế hoạch định sẵn nhà nước. Đối tượng cho vay chỉ bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.

Cùng với công cuộc đổi mới, tháng 9/1990, Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh: Pháp lệnh NH nhà nước và Pháp lệnh NHTM, hợp tác xã TD và công ty tài chính, hệ thống NH nước ta được chia thành hai cấp : NH nhà nước và NHTM. Theo Pháp lệnh này, NH Phát triển Nông nghiệp Việt Nam chuyển thành NHNo&PTNT Việt Nam. Hoạt động TD của NHNo&PTNT đến nay đã có nhiều đổi mới và đã có những bước phát triển quan trọng.

1.1.2. Đặc điểm hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam

NHNo&PTNT Việt Nam là một loại hình tổ chức trung gian tài chính hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân có vốn, sử dụng số vốn này để cấp TD cho các tổ chức, cá nhân cần vốn và cung ứng các dịch vụ thành toán nhằm thu lợi nhuận. Nó là một doanh nghiệp, có tổ chức bộ máy độc lập để quản lý và điều hành kinh doanh, có nguồn tài sản riêng, có mua vào, bán ra, có chi phí, thu nhập và kết quả kinh doanh độc lập; có nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước, tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh. Phạm vi hoạt động của NH này là ngành kinh doanh nông nghiệp và khu vực nông thôn. Do chức

năng, nhiệm vụ của nó, nên NHNo&PTNT gắn bó hữu cơ với nông nghiệp, nông thôn, hoạt động có hiệu quả hay kém hiệu quả của NHNo&PTNT có ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng tới ngành và khu vực kinh tế này. Mặc dù không trực tiếp sản xuất ra hàng nông sản hay các sản phẩm vật chất khác từ nông thôn, nhưng NHNo&PTNT có thể tạo điều kiện thúc đẩy quá trình sản xuất và tái sản xuất của ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn.

1.1.2.1. Mục tiêu hoạt động tín dụng

Cũng như các NHTM khác, mục tiêu hoạt động của NHNo&PTNT và lợi nhuận. Trong cơ chế thị trường, mức lợi nhuận cao và thu được lâu bền là cái đích mà các doanh nghiệp kinh doanh cần và muốn đạt tới. Nguồn thu nhập chủ yếu của NHNo&PTNT là từ lãi cho vay, đầu tư chứng khoán và các phí dịch vụ; trong khi nguồn chi chủ yếu là trả tiền lãi cho nguồn vốn huy động và đi vay. Ngày nay, chi phí cho việc trang bị và hiện đại hoá hệ thống cơ sở vật chất, công nghệ NH là những khoản chi chiếm tỷ trọng đáng kể trong danh mục chi phí của NHNo&PTNT.

Mục tiêu hoạt động của NHNo&PTNT là lợi nhuận, không có nghĩa là nó theo đuổi mục tiêu đó bằng mọi giá, bất chấp việc tuân thủ các nguyên tắc đảm bảo an toàn. Sở dĩ như vậy là vì, cũng như các doanh nghiệp khác, hoạt động của NHNo&PTNT phụ thuộc vào nhiều yếu tố như môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, môi trường tâm lý xã hội, hoạt động đầu tư của người vay vốn... Sự biến động của các yếu tố này có thể gay ra những rủi ro trong hoạt động của hệ thống NHNo&PTNT. Hoạt động của NHTM nói chung có tác động đến sự phát triển của nền kinh tế, nhưng tình trạng của nền kinh tế cung tác động đến hoạt động của hệ thống NHTM.

Thực tế thị trường vốn ở các nước trong khu vực vừa qua cho thấy hoạt động của hệ thống NHTM là rất nhạy cảm. Hướng và cơ cấu đầu tư sai tạo nguy cơ đổ vỡ của hệ thống NH; ngược lại những rủi ro nảy sinh trong hoạt động của hệ thống NH có tính chất lan truyền và gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với hệ thống kinh tế. Nó không chỉ ảnh hưởng xấu đến một quốc gia, mà có khi còn lan truyền ra các nước trong khu vực. Những hậu quả trực tiếp và dễ nhận thấy là sự chao đảo, đổ vỡ hệ thống thị trường vốn, đảo lộn giá trị đồng tiền của quốc gia, từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế và lan từ quốc gia này sang quốc gia khác.

Do mục đích hoạt động TD của NHNo&PTNT là lợi nhuận, nên nó phải tính toán

chi phí "đầu vào" và thu hồi "đầu ra" theo nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá doanh thu để tối đa hoá lợi nhuận. Do theo đuổi mục đích đó, việc quản trị của NHNo&PTNT phải trở thành một hoạt động tất yếu, có ý nghĩa rất quan trọng. Để tồn tại, phát triển và vì lợi ích chung của cộng đồng, NHNo&PTNT buộc phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt những tỷ lệ an toàn như khả năng tự chủ tài chính, khả năng thanh toán, thanh khoản, sinh lợi, chất lượng tài sản có... mà những tỷ lệ này đã trở thành tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Cũng vì thế, mà trong chính sách kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, chính phủ cũng đều quan tâm và coi trọng các biện pháp bảo đảm cho hoạt động của hệ thống NHNo&PTNT cũng như các NHTM nói chung phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững.

Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, NHNo&PTNT cũng phải được quyền tự chủ, phải chịu trách nhiệm trong hoạt động của mình, bảo đảm kinh doanh có hiệu quả và phù hợp với những quy định của pháp luật, không thể chấp nhận bất cứ sự can thiệp trái pháp luật hoặc can thiệp "phi thị trường" vào hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT. Tuy nhiên, do tính đa dạng và nhạy cảm của lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH, mà Nhà nước phải đưa ra những nhuôn khổ pháp lý đồng bộ để quản lý và điều tiết hoạt động này, bảo đảm cho hệ thống NH phát triển bền vững.

1.1.2.2. Phương thức dẫn vốn tín dụng

Hoạt động của NHNo&PTNT ngày nay đã trở nên rất đa dạng với rất nhiều loại dịch vụ. Nếu xét ở góc độ thực hiện chức năng dẫn vốn, hoạt động kinh doanh TD của NHNo&PTNT bao gồm 3 nhóm chính: thu hút vốn, cấp TD và đầu tư chứng khoán.

Một là, thu hút nguồn vốn:

Phương thức này được thực hiện thông qua các biện pháp sau:

- Cung cấp các khoản tiền gửi có thể phát séc.

Đây là những tài khoản ở một NH mà người sở hữu chúng có quyền được phát séc để rút tiền hoặc thanh toán cho việc mua hàng hoá, dịch vụ. Tài khoản này còn được gọi là tài khoản tiền gửi giao dịch hay tiền gửi thanh toán. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi này là một trong những bước đi quan trọng nhất của hoạt động NHTM, bởi nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng và an toàn hơn.

Tiền gửi có thể phát séc là tiền gửi có thể thanh toán theo yêu cầu, tức là người gửi có thể yêu cầu thanh toán bằng cách viết ra một tờ séc và NH sẽ thực hiện thanh toán ngay cho người đó. Đây là công cụ mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, đặc biệt là trong việc bảo quản, kiểm đếm, vận chuyển tiền mặt, quản lý tài chính doanh nghiệp, thanh toán hoặc chuyển đổi ra tiền mặt. Tiền gửi có thể phát séc là một nhuồn vốn quan trọng của NHNo&PTNT, vì nó là nguồn vốn mà NH có phí tổn thấp nhất do những người sở hữu chúng sẵn sàng bỏ qua một số tiền lãi nhất định để có được một tài sản có "lỏng" có thể sử dụng bất cứ lúc nào. Nền kinh tế càng phát triển, thì càng có nhiều khách hàng mở tài khoản séc ở NHTM, NH càng có cơ hội để huy động nguồn vốn này và mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình.

- Cung cấp các tài khoản tiền gửi phi giao dịch.

Tài khoản này có đặc tính chung là được hưởng lãi, rút vốn theo định kỳ và người sở hữu chúng không được quyền phát séc. Do người sở hữu tài khoản không được quyền phát séc nên nó được gọi là tài khoản phi giao dịch. Mức lãi suất của loại tiền gửi này thường cao hơn nhiều so với tài khoản tiền gửi có thể phát séc, vì mục đích chính của những người sử dụng loại tài khoản này là lợi nhuận. Tiền gửi phi giao dịch thường chiếm phần lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHNo&PTNT, nó bao gồm hai khoản chính là tiền gửi tiết kiệm và chứng chỉ tiền gửi.

Tiền gửi tiết kiệm lại bao gồm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Tài khoản này nhằm mục đích chính là huy động nguồn tiết kiệm của các chủ thể trong xã hội nên NH phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi có thể phát séc. Về nguyên tắc, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn không được rút ra khi chưa đến hạn, nhưng do sự cạnh tranh thu hút tiền gửi, các NHTM thường cho phép người gửi có thể rút tiền trước thời hạn và khi đó sẽ phải giảm một lượng tiền lãi nhất định.

Chứng chỉ tiền gửi cũng có nhiều loại kỳ hạn, có thể đến hơn 5 năm. Về thực chất, chứng chỉ tiền gửi được coi như những công cụ vay nợ của các NHTM nói chung (như kỳ phiếu, trái phiếu...) và là một nguồn vốn quan trọng của NHTM, nó có thể được phát hành trên thị trường tài chính. Xét ở cùng thời điểm, so với tiền gửi tiết kiệm thì thông thường chứng chỉ tiền gửi là nguồn vốn có chi phí lớn hơn, nhưng tính ổn định lại cao hơn. Do đó, chứng chỉ tiền gửi có thể đem bán lại được ở thị trường thứ cấp nên nó được các công ty tài chính nắm giữ như là những tài sản đầu tư có tính lỏng cao.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/05/2022