nào đó mang tính ổn định. Quan niệm làng nghề phải được xác định cả về mặt chất và mặt lượng. Mặt chất, làng nghề phải là làng có sự khác biệt so với các làng thuần nông hoặc với phố nghề ở thành thị. Mặt lượng, làng nghề phải được thể hiện ở một quy mô nhất định và có tính ổn định tương đối cao. Vì có điểm xuất phát là làng gắn với nông nghiệp, nên khi quy mô thủ công nghiệp của làng phát triển đến mức độ nào đó mới được gọi là làng nghề. Việc xác định quy mô nghề, phải vừa xem xét bản thân hoạt động thủ công nghiệp, vừa phải đặt nó trong quy mô làng về số hộ, số lao động, thu nhập từ hoạt động kinh tế của nghề.
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh quy mô các hoạt động thủ công nghiệp, trong đó có hai chỉ tiêu cơ bản là giá trị sản xuất và lao động làm nghề thủ công nghiệp. Song, do nghề gắn với làng vốn có điểm xuất phát là nông nghiệp, nên phải so sánh tỷ lệ lao động (hay hộ) và thu nhập của thủ công nghiệp với tổng số lao động và tổng thu nhập của làng. Nghĩa là, tỷ lệ lao động làng nghề và tỷ lệ thu nhập do nghề mang lại so với lao động và thu nhập của làng là tiêu thức xác định làng đó có phải là làng nghề hay không.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu các điểm hợp lý của các qun niệm nêu trên và nghiên cứu của bản thân, có thể hiểu làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ công hầu như được tách hẳn ra khỏi nông nghiệp, kinh doanh độc lập và đạt tới một tỷ lệ nhất định về lao động và thu nhập của làng. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi của các nghề thủ công như nghề gốm sứ, đúc đồng, ươm tơ, dệt vải, dệt tơ lụa...Trước đây, làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp. Ngày nay, do sự phát triển mạnh của ngành kinh tế dịch vụ, nên ở các tỉnh còn có các nghề buôn bán dịch vụ trong nông thôn cũng được gọi là làng nghề. Trong một làng nghề có thể chỉ có một nghề, nhưng cũng có thể có nhiều nghề. Điều này là tuỳ theo số lượng ngành nghề thủ công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ ưu thế có trong làng.
- Đặc điểm của làng nghề:
Khác với làng thuần nông và phố nghề, làng nghề được ra đời và phát triển ở nông thôn, có mối quan hệ chặt chẽ với nông nghiệp, lao động mang tính chất thủ công và chủ yếu là lao động tại chỗ; vốn ít, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu và mang tính chất thủ công; hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu, đa số sản phẩm được sản xuất có tính chất đơn chiếc và nhiều sản phẩm mang bản sắc văn hoá của vùng, của dân tộc.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường, CNH và HĐH nông nghiệp, nông thôn làm cho các quan hệ kinh tế ở làng xã thay đổi, các làng nghề cũng biến đổi theo. Dưới đây là những đặc điểm chủ yếu của làng nghề.
Một là, làng nghề có quan hệ gắn bó với nông nghiệp, nhưng ít phụ thuộc vào nông nghiệp. ở nước ta trước đây cũng như hiện nay, hầu hết các nghề đều lấy làng làm địa điểm hoạt động. Do thủ công nghiệp hình thành trong các làng, nên giữa nghề nông và nghề thủ công nghiệp có mối quan hệ gắn bó, bổ sung cho nhau. Sự phát triển của thủ công nghiệp trong làng phụ thuộc rất lớn vào nông nghiệp. Bên cạnh các hộ chuyên làm thủ công nghiệp, đa số các hộ trong làng làm nông nghiệp kiêm thủ công nghiệp. Sự phát triển của nông nghiệp tạo điều kiện để các hộ chuyển sang làm nghề thủ công nghiệp. Nông nghiệp được coi như "bàn đạp" để phát triển thủ công nghiệp trong làng. Hầu hết nguyên liệu của thủ công nghiệp trong làng do nông nghiệp tao ra (như chế biến nông sản, dệt vải, dệt chiếu...), một phần lớn nguồn vốn để hình thành làng nghề ban đầu có nguồn gốc từ tích luỹ nông nghiệp, sản phẩm làm ra trước hết là phục vụ nông nghiệp và cư dân nông thôn.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, xã hội, khi trình độ kinh tế phát triển cao hơn, hoạt động của làng nghề càng có xu hướng độc lập hơn đối với nông nghiệp. Nguyên liệu cho sản xuất của làng nghề được đa dạng hoá trong đó có cả sản phẩm của các ngành công nghiệp ở thành thị. Hơn nữa, khi nước ta đã là thành viên chính thức của WTO, nguyên liệu cho sản xuất của làng nghề còn bị cạnh tranh quyết liệt từ các bạn hàng nước ngoài. Do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, lợi thế nguyên liệu có nguồn gốc trực tiếp từ tự nhiên giảm xuống, làm cho sự tồn tại và phát triển của làng nghề gắn liền với nguyên liệu tại chỗ từ nông nghiệp có xu hướng giảm xuống. Làng nghề ngày càng có tính độc lập hơn đối với nông nghiệp.
Hai là, lao động trong làng nghề là sự kết hợp giữa kỹ năng, kỹ thuật cao với tay nghề khéo léo của thợ thủ công, giữa lao động tại chỗ với lao động từ nơi khác đến. Trong các làng nghề hiện nay, trừ một số khâu công việc hoặc những công việc mang tính bí quyết nghề nghiệp, còn lại là lao động phổ thông, trình độ thấp, hầu hết là lao động tại địa phương. Ngày nay, do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, xu hướng tự do hoá thương mại, nên việc sản xuất của làng nghề phải dựa vào những phương tiện, công cụ lao động mới. Nó đòi hỏi lao động trong làng nghề cũng phải được
nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật thì sản phẩm làm ra mới đủ sức cạnh tranh. Cũng do những tác động này, cơ cấu lao động trong làng nghề cung phải thay đổi theo hướng ngày càng hiện đại.
Có thể bạn quan tâm!
- Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam - 1
- Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam - 2
- Làng Nghề Ở Quảng Nam Và Vai Trò Của Tín Dụng Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Đối Với Sự Phát Triển Làng Nghề
- Khả Năng Phát Triển Làng Nghề Ở Tỉnh Quảng Nam Và Nhu Cầu Về Vốn Cho Sự Phát Triển Của Nó
- Nhu Cầu Về Vốn Cho Phát Triển Các Làng Nghề Ở Tỉnh Quảng Nam
- Hoạt Động Tín Dụng Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Quảng Nam Phục Vụ Phát Triển Làng Nghề Của Tỉnh
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Ba là, khả năng tiếp cận nguồn vốn thuận lợi hơn. Hiện nay, vốn để các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề chủ yếu là tự có và đi vay trong làng, nhất là của những người họ hàng. Trong những năm gần đây, lượng vốn mà các làng nghề vay của các tổ chức TD tuy đã tăng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đồng thời, do tác động của công cuộc đổi mới và do đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mức sống của người dân tăng lên, lượng tiết kiệm trong dân cư tăng lên và các dịch vụ nhất là dịch vụ TD nông thôn được mở rộng sẽ là điều kiện để các chủ kinh tế trong làng nghề tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn vốn xã hội.
Bốn là, có sự kết hợp công nghệ sản xuất hiện đại với kinh nghiện, kỹ thuật thủ công theo hướng tiểu thủ công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo. Một số nghề được cơ giới hoá ở một vài công đoạn trong sản xuất (ví dụ xay bột để làm bánh tráng gạo bằng máy thay cho kỹ thuật thủ công trước đây, cưa gỗ và bào trơn bằng máy trong nghề mộc...). Dưới tác động của việc đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, trình độ cơ giới hoá của các làng nghề ngày càng tăng lên và theo hướng ngày càng hiện đại. Lượng vốn đầu tư cho một chỗ làm việc trong làng nghề theo đó cũng ngày càng tăng lên.
Năm là, có sự chuyên môn hoá, hợp tác hoá, liên kết giữa các hình thức sản xuất kinh doanh trong làng nghề và giữa các làng nghề với công nghiệp lớn. Do tác động của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, các hình thức sản xuất kinh doanh trong làng nghề cũng được cơ cấu lại theo hướng giảm số hộ cá thể, tăng số cơ sở như tổ hợp tác, hợp tác xã, công ty. Có sự liên kết giữa làng nghề với các tổ chức kinh doanh khác như liên kết dịch vụ đầu vào, đầu ra, liên kết giữa các công đoạn sản xuất do phát triển chuyên môn hoá. Các hiệp hội ngành nghề giúp nhau cũng phát triển...Kết cấu hạ tầng cho làng nghề phát triển mạnh mẽ.
Sáu là, sản phẩm được sản xuất ra có sự kết hợp giữa sản xuất hàng loạt với sản xuất đơn chiếc mang bản sắc văn hoá dân tộc. Tuy sản xuất trong làng nghề vẫn là sản xuất quy mô nhỏ, nhưng do áp dụng máy móc, nên để tránh lãng phí trong việc sử dụng máy móc thiết bị công nghệ thì việc sản xuất phải có khối lượng đủ lớn mới giảm được
chi phí sản xuất, mới có lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Đồng thời, do tác động của cạnh tranh, viêc sản xuất sản phẩm có tính đến những nét đặc trưng gắn với các giá trị văn hoá truyền thống của địa phương thông qua công nghệ thủ công, sản xuất đơn chiếc ở một số công đoạn là cần thiết để phát triển làng nghề hiện đại.
Những đặc điểm nêu trên của làng nghề được xem xét gắn với những biến đổi của nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay ở cả nước nói chung và mỗi tỉnh, thành nói riêng.
1.2.1.2. Các làng nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay
Quảng Nam là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống hình thành từ lâu đời. Đó là các làng nghề như nghề mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà, nghề đúc đồng ở Phước Kiều đã có từ thế kỷ XV gắn với đô thị cổ Hội An và dinh trấn Quảng Nam tại Thanh Chiêm. Theo thời gian, về sau hình thành thêm những làng nghề mới ở khu vực ven sông Thu Bồn, sông Vu Gia như nghề ươm tơ, dệt lụa, dệt chiếu... Các làng nghề này đã trở thành quen thuộc và đống vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm tiêu dùng trên địa bàn, trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Những sản phẩm của các làng nghề mang bản sắc văn hoá của địa phương Quảng Nam.
Trước năm 1975, các làng nghề sản xuất phân tán, phát triển chậm, hầu như lao động ở các làng nghề đã di chuyển đi làm ăn nơi khác hoặc đến các vùng ven đô thị để duy trì sản xuất, vì vậy quy mô sản xuất và số lượng sản phẩm của làng nghề không lớn, hoạt động sản xuất hầu như cầm chừng. Sau ngày giải phóng, Đảng và Nhà nước ta có những chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế, trong đó tập trung khôi phục và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống, nên nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp ở các địa phương được khôi phục và phát triển. Sản phẩm của một số làng nghề được Nhà nước bao cấp cả về cung ứng nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm. Các làng nghề được phát triển mạnh nhất là các sản xuất thủ công, mỹ nghệ, vì đây là những sản phẩm được các nước Đông Âu ưa chuộng, có khả năng xuất khẩu sang các thị trường này để thu ngoại tệ.
Từ khi chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, các cơ sở sản xuất trong làng nghề chưa thích nghi với cơ chế mới nên đã gặp nhiều khó khăn, có lúc tưởng như bế tắc. Sở dĩ như vậy bởi vì, một mặt do thị trường tiêu thụ truyền thống của sản phẩm
thủ công mỹ nghệ, hàng dệt may bị thu hẹp; mặ khác, các cơ sở chưa kịp thích nghi với cơ chế thị trường, thiếu tính năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặc dù vậy, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn có một số làng nghề do biết khắc phục khó khăn, nhạy bén, năng động trong môi trường mới, nên đã duy trì được sản xuất, tìm được thị trường, bán được hàng và dần dần tăng quy mô.
Những năm gần đây, nhờ có một số ưu đãi của Nhà nước về cơ chế chính sách, các làng nghề có điều kiện phục hồi và phát triển. Trong tỉnh, đã xuất hiện một số làng nghề mới. Một số làng nghề đã mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất, quan tâm đến chất lượng và mẫu mã sản phẩm như làng nghề làm hàng thủ công mỹ nghệ, làng nghề dệt vải, dệt chiếu, đúc đồng, gốm sứ vv... Đến nay, toàn tỉnh đã có 61 làng nghề hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh bao gồm cả sản xuất và dịch vụ được phân bổ trên khắp các huyện, thị (phụ lục 1).
1.2.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với sự phát triển làng nghề
Vốn là điều kiện không thể thiếu được cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề. Vốn bao gồm cả vốn bằng tiền và các tài sản khác phục vụ cho sản xuất, tác động đến làng nghề trên nhiều khía cạnh:
- Vốn đầu tư và máy móc, thiết bị, khoa học và công nghệ có quan hệ thuận chiều với nhau. Làng nghề nào đầu tư nhiều thì khả năng cơ giới hoá càng cao và điều này sẽ nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Nói cách khác, vốn là cơ sở để có được công nghệ tiên tiến.
- Có vốn, các làng nghề sẽ có điều kiện chủ động trong hoạt động đầu tư, chủ động điều chỉnh mặt hàng và cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường.
- Có nguồn lực vốn, các làng nghề có điều kiện chủ động du nhập sản phẩm mới hay ngành nghề mới, để đáp ứng với sự những biến đổi nhanh nhạy của thị trường.
- Chủ động đầu tư kết cấu hạ tầng cho làng nghề.
- Là cơ sở để tạo ra việc làm ở làng nghề.
- Là cơ sở để phát huy các nguồn lực khác, vv..
Trước đây, vốn của các hộ sản xuất kinh doanh trong làng nghề thường là vốn tự có hoặc huy động của anh em, họ hàng. Lượng vốn mà các chủ sản xuất có được thường
nhỏ bé, khó đáp ứng được yêu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vốn đầu tư sản xuất kinh doanh thấp, nên người sản xuất không thuê được người thiết kế mẫu mã, không mua trữ được nguyên vật liệu khi rẻ (nhất là nguyên liệu là những nông sản có tính thời vụ), không đầu tư mua máy móc thiết bị để cơ gới hoá, HĐH sản xuất. Điều đó làm cho khả năng cạnh tranh sản phẩm của làng nghề thấp, hàng hoá khó bán được, thậm chí các hộ bị mất khả năng thu hồi vốn. Các cơ sở làng nghề, do vậy, bị rơi vào "cái vòng luẩn quẩn": vốn ít → thiết bị thủ công → sản phẩm làm ra với năng suất thấp → giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm → không mở rộng được thị trường → thu hồi vốn khó
→ vốn ít.
Bên cạnh nguồn vốn, sự phát triển của làng nghề tất yếu còn phụ thuộc vào các điều kiện khác, như kết cấu hạ tầng, trình độ kỹ thuật và công nghệ, sự dồi dào hay khan hiếm về nguyên vật liệu, truyền thống làng nghề, sự phát triển của ngành nông nghiệp, sự biến động của nhu cầu thị trường, cơ chế chính sách của Nhà nước...Mặc dù vốn không phải là điều kiện duy nhất quyết định sự phát triển của làng nghề, song nó có vai trò rất quan trọng bởi tác động của nó khá bao trùm trong việc thúc đẩy làng nghề phát triển. Để các làng nghề thật sự thoát khỏi vòng luẩn quẩn này, cần phải tìm ra nguồn vốn cho cho nó phát triển.
Trong các nguồn vốn trên thị trường hiện nay, vốn TD của NHNo&PTNT là một bộ phận có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của làng nghề. Nó thể hiện:
Thứ nhất, vốn TD của NHNo&PTNT là một kênh quan trọng cho việc mở rộng đầu tư và tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề.
Nhu cầu vốn cho phát triển các làng nghề đáp ứng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta là rất lớn, nhưng như đã phân tích, các chủ thể hầu như khó và không thể tự mình có đủ nguồn vốn để hoạt động. Ngoài các nguồn vốn tự có, các chủ thể phải mở rộng nguồn vốn thông qua các kênh dẫn vốn của thị trường. NHNo&PTNT do nhiệm vụ của nó là phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nó còn là một tổ chức trung gian tài chính lớn nhất ở khu vực nông thôn, hoạt động đa dạng nhất với chức năng cơ bản là đi vay để cho vay, nên có nhiều điều kiện hơn trong việc đáp ứng nhu cầu của các làng nghề. Tính kinh tế do có lợi thế về quy mô và khả năng đa dạng trong hoạt động của NHNo&PTNT sẽ tiết kiện được các chi phí giao dịch, hạn chế được rủi ro trong
kinh doanh và do sự chuyên nghiệp nên nó trở thành người trung gian về thông tin, giúp lựa chọn việc sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong làng nghề.
Vai trò của TD NHNo&PTNT đối với làng nghề còn được thể hiện trên các khía cạnh: nó có thể tập trung được các nguồn vốn nhàn rỗi còn nằm rải rác trong xã hội nói chung và các làng xã nói riêng vào NH, đưa chúng vào hoạt động đáp ứng kịp thời nhu cầu đầu tư của làng nghề, trong khi phần đông các cá nhân đều là những người có khoản tiết kiệm nhỏ và không tập trung không thể đáp ứng được. Do quy mô hoạt động trên toàn quốc với hàng chục nghìn cơ sở, nên NHNo&PTNT có khả năng linh hoạt cao trong việc huy động và cho vay, qua đó cho phép hoạt động TD điều chuyển nguồn vốn giữa các địa bàn một cách hiệu quả mà không bị phụ thuộc vào giới hạn địa lý. Nguồn vốn có thể được NH huy động từ nơi này, nhưng cho vay ở nơi khác nếu có hiệu quả đầu tư tốt hơn. Hoạt động TD của NH tạo ra động lực mạnh mẽ kích thích mọi chủ thể tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung những nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán để tạo ra nguồn vốn lớn sẵn sàng cung ứng cho hoạt động đầu tư của các chủ thể khác, làm cho nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả hơn, tăng trưởng kinh tế của các làng nghề nhanh hơn.
Thứ hai, TD của NHNo&PTNT là kênh phân bổ vốn có hiệu quả cho hoạt động đầu tư của các chủ thể trong làng nghề.
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá và chịu sự chi phối của các quy luật thị trường. Hoạt động TD của NHNo&PTNT không chỉ với tính cách là trung gian trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa nơi có vốn mà còn có vai trò rất quan trọng trong việc lựa chọn, sàng lọc để phân bổ nguồn vốn dựa trên nguyên tắc kinh doanh thương mại và các quy luật của thị trường. Do tính chuyên nghiệp và kinh doanh có tổ chức vì mục tiêu lợi nhuận, NH có thể tìm được những nơi đầu tư an toàn, hiệu quả và giảm thiểu được rủi ro, tổn thất.
Hoạt động TD của NHNo&PTNT được thực hiện trên nguyên tắc, điều kiện và quy trình TD hết sức chặt chẽ. Mỗi hình thức cấp TD đều có những nguyên tắc cụ thể, trong đó khách hàng phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, phải trả cả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn, phải thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và của NH. Nếu khách hàng không thực hiện theo quy định hoặc vi phạm nguyên tắc vay vốn thì sẽ bị phạt về kinh tế, hoặc có thể bị khởi kiện trước pháp luật. Khi cấp
TD, NH tiến hành thẩm định khách hàng và các điều kiện TD. NH chỉ cấp TD cho những khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn hợp pháp, có khả năng tài chính, có năng lực thực sự trong tổ chức sản xuất kinh doanh, có dự án vay vốn khả thi và có khả năng trả nợ và phải cam kết chấp hành nghiêm túc các quy định của NH khi được cấp TD... Với cơ chế hoạt động như vậy, NH buộc khách hàng được cấp TD phải thực sự năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, phải tìm kiếm cơ hội đầu tư sinh lời, sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả. Ngược lại, thông qua giao dịch TD, để thuyết phục được NH cho vay, người vay vốn phải nâng cao chất lượng phương án, dự án vay vốn, khuyến khích những ý tưởng kinh doanh mới với các biện pháp khả thi. Đây là một điều kiện quan trọng cho hoạt động của làng nghề phát triển ổn định, năng động, hạn chế rủi ro.
Thứ ba, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và mặt hàng, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá làng nghề
Vì mục đích sinh lợi, hoạt động TD của NHNo&PTNT có xu hướng coi trọng đầu tư vào các ngành có lợi thế và khả năng sinh lợi cao, đồng thời hạn chế hoặc không đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp, khó có điều kiện phát triển. Do hoạt đông theo hướng đó, nên NH làm cho việc di chuyển vốn diễn ra phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần phát huy thế mạnh của những làng nghề, tiết kiệm nguồn lực xã hội đi đôi với việc thực hiện chính sách phát triển có trọng tâm, trọng điểm, từ đó thúc đẩy sự phát triển của các làng nghề theo hướng gắn phát triển với thị trường và hiện đại.
Vai trò thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và mặt hàng trong làng nghề của NHNo&PTNT còn được thể hiện ở chính sách lãi suất TD mà NH đưa ra. Sự kết hợp giữa lãi suất và TD góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế làng nghề theo hướng hiện đại. Lãi suất TD là công cụ quan trọng trong tay Nhà nước nhằm điều tiết hoạt động kinh tế của nền kinh tế nói chung và làng nghề nói riêng. Thông qua sử dụng công cụ này, Nhà nước có thể hướng NH ưu tiên đầu tư vốn vào các ngành, làng nghề theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội đã lựa chọn.
Thứ tư, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn và tạo tiền cho hoạt động của các làng nghề.