Chương 2. Giao dịch điện tử
sở phục vụ cho thanh toán ngân hàng phát triển mạnh kể từ năm 2002. Trong đó, công nghệ cho thanh toán thẻ là hoạt động được ưu tiên triển khai. Sau 5 năm, các ngân hàng đã hình thành một mạng lưới máy giao dịch tự động ATM và đơn vị chấp nhận thẻ khá rộng. Số lượng thẻ phát hành năm 2006 chỉ đạt khoảng 4 triệu thẻ thì đến năm 2007 con số này đã tăng gấp đôi (hơn 8 triệu thẻ). Số lượng máy ATM cũng tăng mạnh từ 2.500 máy năm 2006 lên hơn 4.000 máy năm 2007.
Theo Quyết định số 32/2007/QĐ-NHNN ngày 03/7/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tổ chức tín dụng có thể phát hành một loại thẻ thanh toán mới, đó là thẻ trả trước vô danh với hạn mức 5 triệu đồng. Hình thức thẻ này ra đời với mục tiêu giảm lượng tiền mặt trong thanh toán. Hơn nữa, hai lợi ích cơ bản bao gồm tiết kiệm thời gian và chủ động trong chi tiêu cũng là ưu điểm của loại hình thẻ thanh toán nói trên. Thanh toán bằng thẻ trả trước vô danh đóng vai trò như một phương thức bổ sung cho hoạt động thanh toán điện tử mà hệ thống ngân hàng đang chú trọng đẩy mạnh.
2.4.3.2. Liên minh thẻ ngân hàng
Trong bối cảnh số lượng tài khoản cá nhân ngày một tăng, mạng lưới thanh toán, loại hình thẻ ngày một mở rộng theo nhu cầu của người tiêu dùng, vấn đề khó khăn chính là việc liên kết các hệ thống thanh toán của nhiều ngân hàng khác nhau nhằm cắt giảm chi phí và tăng tính tiện dụng cho khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành nói chung.
Hệ thống thanh toán thẻ của Việt Nam hiện đang tồn tại 4 liên minh thẻ. Đó là liên minh thẻ Ngân hàng VCB, liên minh thẻ Việt Nam Bankcard (VNBC) của Ngân hàng Đông Á, liên minh thẻ Banknetvn gồm 3 ngân hàng quốc doanh và một số ngân hàng cổ phần, và liên minh thẻ ANZ/ Sacombank. Trên lý thuyết, thẻ của mỗi ngân hàng thành viên có thể thực hiện giao dịch trên máy ATM của các ngân hàng khác trong liên minh. Tuy nhiên, hiện nay từng ngân hàng thành viên lại phát triển các dịch vụ khác nhau, dẫn đến việc
Chương 2. Giao dịch điện tử
khách hàng của ngân hàng này vẫn chưa thể thực hiện thao tác chuyển khoản trên ATM của những ngân hàng khác trong cùng liên minh.
Nhóm liên minh thẻ do ngân hàng VCB khởi xướng đã thực hiện thành công việc kết nối thanh toán thẻ giữa 17 ngân hàng thành viên. Đây là nỗ lực rất lớn của những ngân hàng nói trên trong việc nâng cao giá trị gia tăng cho khách hàng thông qua tạo lập một mạng lưới thanh toán trên máy ATM.
Ngày 21/4/2007, hệ thống thanh toán thẻ Việt Nam được đánh dấu bằng việc kết nối thành công 3 ngân hàng bao gồm Ngân hàng Công Thương Việt Nam (Incombank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương (SaigonBank) thông qua dịch vụ kết nối chuyển mạch của Banknetvn. Theo Banknetvn, hệ thống kết nối của Banknetvn giúp chủ thẻ có thể thực hiện giao dịch tại gần 25 nghìn máy ATM trong hệ thống Banknetvn, chiếm khoảng 60% tổng số ATM trên toàn quốc. Qua hai tháng vận hành chính thức, trên 83 ngàn giao dịch với tổng giá trị trên 23 tỷ đồng đã thực hiện qua hệ thống chuyển mạch 4 ngân hàng trên của Banknetvn và có xu hướng tăng với tốc độ khá nhanh. Như vậy, từ khi chính thức vận hành đến hết tháng 4/2007 đã có khoảng 450 giao dịch thực hiện qua hệ thống. Con số này tăng gần gấp 3 lần trong tháng 5/2007 và tăng gần gấp 5 lần trong tháng 6/2007. Dự kiến cuối năm số lượng giao dịch sẽ tăng lên khoảng 4.000 - 4.500 giao dịch/ngày, xấp xỉ gấp 10 lần so với giai đoạn đầu mới đi vào hoạt động.
Dự kiến, trong tương lai gần, 4 ngân hàng tiếp theo là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và Ngân hàng TMCP Đông Á (EAB) cũng triển khai dịch vụ thanh toán thẻ liên ngân hàng thông qua hệ thống Banknetvn.
Như vậy, cả 4 ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam gồm Ngân hàng Agribank, Ngân hàng Incombank, Ngân hàng VCB và Ngân hàng BIDV đều đã tìm cho mình một liên minh thanh toán thẻ để liên kết. Thực tế này chắc
Chương 2. Giao dịch điện tử
chắn sẽ giúp hệ thống thanh toán thẻ tại Việt Nam hoạt động hiệu quả hơn với chi phí thấp, mang lại lợi ích cho cả người tiêu dùng và ngân hàng.
2.4.4. Định hướng của Nhà nước về phát triển thanh toán điện tử
Ngày 29 tháng 12 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt Nam. Mục tiêu của Đề án là hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán, đồng thời thúc đẩy phát triển các phương thức thanh toán điện tử trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu này, Đề án vạch ra 6 nhóm đề án nhánh như sau:
Nhóm đề án 1: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán của nền kinh tế theo hướng tạo lập môi trường công bằng, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, ứng dụng công nghệ trong thanh toán.
Nhóm đề án 2: Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công. Giải pháp này bao gồm quản lý chi tiêu trong khu vực Chính phủ bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt và trả lương, trợ cấp ưu đãi xã hội qua tài khoản.
Nhóm đề án 3: Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tập trung xây dựng và ứng dụng thanh toán điện tử, đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử.
Nhóm đề án 4: Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư thông qua phát triển mạng lưới chấp nhận các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, tăng lượng tài khoản cá nhân, mở rộng mạng lưới máy ATM và đơn vị chấp nhận thẻ.
Nhóm đề án 5: Phát triển hệ thống thanh toán thông qua việc hoàn thiện và phát triển hệ thống thanh toán liên ngân hàng; xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ tự động và trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất.
Nhóm đề án 6: Các giải pháp hỗ trợ để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Nếu 6 đề án nhánh nêu trên được triển khai thành công, tỷ lệ tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán có thể giảm xuống không quá 18% vào năm 2010 và 15% vào năm 2020. Đồng thời, số tài khoản cá nhân sử dụng
Chương 2. Giao dịch điện tử
cho thanh toán cũng tăng lên 20 triệu vào năm 2010 và 45 triệu vào năm 2020, số thẻ phát hành đạt mức 15 triệu đến cuối năm 2010 và 30 triệu cho tới năm 2020.81 Ngân hàng Nhà nước hiện đang tích cực triển khai Đề án xây dựng Trung tâm Chuyển mạch thẻ thống nhất. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ có những chỉ đạo cụ thể để các liên minh tăng cường hợp tác với nhau, cùng chia sẻ cơ sở hạ tầng thanh toán thẻ, qua đó chi phí sẽ giảm và tạo thuận lợi hơn cho các chủ thẻ trong giao dịch cá nhân.
* Lợi ích của việc trả lương qua tài khoản
Đánh giá của các chuyên gia ngành tài chính, ngân hàng cho rằng việc trả lương qua tài khoản thực sự mang lại những hiệu quả tương tác “3 trong 1” vô cùng lớn. Đó như một bước đệm quan trọng cho công cuộc phòng, chống tham nhũng lãng phí của Chính phủ và tiến tới triển khai đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010. Quyết định phê duyệt Đề án Thanh toán không dùng tiền mặt của Thủ tướng Chính phủ sẽ tạo đà cho thanh toán điện tử phát triển bền vững và trở thành một hình thức thanh toán phổ biến đối với mọi đối tượng từ doanh nghiệp đến cá nhân người tiêu dùng.
2.4.5. Ngân hàng với thanh toán điện tử
2.4.5.1. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến (Internet Banking)
2.4.5.1.1. Tình hình phát triển chung
(i) Số lượng
Dịch vụ ngân hàng trực tuyến là một khái niệm bắt đầu phổ biến trong vài năm gần đây khi số lượng ngân hàng cung cấp dịch vụ này tăng mạnh từ năm 2004.
Tốc độ phát triển của dịch vụ ngân hàng trực tuyến là một minh chứng rõ ràng cho những thay đổi trong hoạt động thanh toán từ phía ngân hàng nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Sự chuyển biến này hoàn toàn phù hợp với tốc độ và xu thế phát triển của thương mại điện tử Việt Nam. Khi thương mại điện tử ngày càng phổ biến trong xã hội, thanh toán điện tử sẽ là một nhu cầu tất yếu để thúc đẩy các bước phát triển tiếp theo.
Chương 2. Giao dịch điện tử
Bảng 4.1. Danh sách các ngân hàng triển khai Internet Banking
Ngân hàng | Tiện ích cung cấp thông tin | Tiện ích thanh toán | |||||
Thông tin TK | In sao kê | Thông tin ngân hàng | Chuyển khoản | Thanh toán hóa đơn | Dịch vụ khác* | ||
1. | NH Ngoại Thương VN | x | x | x | x | x | x |
2. | NH Quốc tế VIBank | x | x | x | x | ||
3. | NH Nhà Hà Nội | x | x | ||||
4. | NH Công Thương VN | x | x | x | x | ||
5. | NH Phương Nam | x | x | ||||
6. | NH Hàng Hải | x | x | x | |||
7. | NH Quân đội | x | x | x | |||
8. | NH Kỹ Thương | x | x | x | x | x | x |
9. | NH Sài Gòn – Hà Nội | x | x | x | |||
10. | NH TMCP Sài Gòn | x | x | x | |||
11. | NH Đông Á | x | x | x | x | x | x |
12. | NH Sài Gòn Công Thương | x | x | ||||
13. | NH Citi Bank | x | x | x | x | x | |
14. | NH ANZ | x | x | x | |||
15. | NH Indovina | x | x | x | x | x | |
16. | NH Xuất nhập khẩu | x | x | x | x | ||
17. | NH ACB | x | x | x | x | x | x |
18. | NH An Bình | x | x | x |
Có thể bạn quan tâm!
- Hải Quan Có Chấp Nhận Các Hợp Đồng Hình Thành Qua Các E-Mail Không?
- Một Số Hình Thức Thanh Toán Điện Tử Phổ Biến
- Case Study: Flylady Ứng Dụng Thanh Toán Điện Tử Qua Paypal Cơ Hội Và Hiểm Họa
- Một Số Ngân Hàng Triển Khai Hiệu Quả Dịch Vụ Ngân Hàng Trực Tuyến
- Quy Trình Mua Hàng Điện Tử Và Quy Trình Thanh Toán Điện Tử Của Paynet
- Danh Sách Các Ngân Hàng Thành Viên Của Smartlink Và Banknetvn
Xem toàn bộ 360 trang tài liệu này.
Chương 2. Giao dịch điện tử
* Dịch vụ khác bao gồm quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán, mở, sửa L/C, chuyển tiền ra nước ngoài, yêu cầu giải ngân hoặc trả nợ, đăng ký sử dụng các sản phẩm của ngân hàng, thanh toán qua website.
Nguồn: Khảo sát của Vụ thương mại điện tử, Bộ Công Thương tháng 12/2007 Ngân hàng hiện được coi là một trong những lĩnh vực dịch vụ phát triển
nhanh, với sự tham gia năng động của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Cùng với tiến bộ của công nghệ thông tin, các ngân hàng khó có thể bỏ qua các ứng dụng công nghệ trong việc nâng cấp dịch vụ của mình. Điều này được minh chứng rõ nét qua tốc độ gia tăng số lượng ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến trong thời gian qua.
(ii) Tính năng
Kết quả khảo sát các website cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến cho thấy nhiều điểm tương đồng giữa các ngân hàng. Các website đều có cấu trúc hợp lý, đơn giản và hướng dẫn cụ thể để khách hàng dễ dàng truy cập và thao tác thực hiện yêu cầu của mình.
Một dịch vụ ngân hàng trực tuyến hoàn chỉnh cần có những tính năng thông tin và tính năng thanh toán hoá đơn, cụ thể như sau:
Tra cứu số dư tài khoản;
Tra cứu thông tin ngân hàng; Sao kê tài khoản hàng tháng;
Ngoài ra, các ngân hàng cũng có thể tận dụng kênh giao dịch trực tuyến để cung cấp thêm một số dịch vụ chuyên ngành khác như chuyển đổi ngoại tệ, đăng ký mở thư bảo đảm tín dụng (L/C), chuyển tiền ra nước ngoài, đăng ký sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng khác, v.v…Cho tới cuối năm 2007, hầu hết các ngân hàng vẫn chưa thể triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến toàn diện.
Tuy nhiên, những tính năng cơ bản và mang lại lợi ích ban đầu cho người tiêu dùng đã được đưa vào hoạt động tại tất cả 18 ngân hàng triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Trong đó, tra cứu số dư tài khoản cá nhân và thông tin sao kê hàng tháng là tính năng phổ biến nhất. Tính năng này giúp khách hàng ngồi
Chương 2. Giao dịch điện tử
tại chỗ với máy tính nối mạng có thể kiểm tra số dư tài khoản và nhật ký chi tiêu của mình mỗi tháng mà không cần phải đến ngân hàng hoặc chờ nhận thông tin từ ngân hàng gửi đến qua đường bưu điện.
Tính năng cơ bản thứ hai vẫn thuộc nhóm cung cấp thông tin. Những thông tin có tính thay đổi thường xuyên như tỷ lệ lãi suất tiết kiệm, tỷ giá ngoại tệ, vàng, v.v... cũng được cung cấp cho khách hàng một cách nhanh và chính xác thông qua dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Một tính năng khác được nhiều ngân hàng đưa vào hoạt động là cho phép chuyển khoản trong cùng hệ thống ngân hàng. Thay bằng việc phải đến các điểm giao dịch của ngân hàng trong một khoảng thời gian làm việc nhất định, người tiêu dùng có thể đặt lệnh chuyển khoản vào bất cứ lúc nào từ một máy tính nối mạng. Tính năng này giúp khách hàng tiết kiệm và chủ động được thời gian giao dịch. Hiện mới chỉ có 4 ngân hàng là Kỹ thương, Indovina, Á Châu và chi nhánh CitiBank Việt Nam cho phép chuyển khoản ngoài hệ thống trên tổng số 8 ngân hàng có chức năng chuyển khoản trực tuyến.
Một trong những cản trở đối với việc cung cấp trực tuyến dịch vụ chuyển khoản ngoài hệ thống là mối lo về mức độ an toàn, bảo mật của khách hàng cũng như năng lực của ngân hàng lõi (core banking) chưa đảm bảo. Tuy nhiên, con số 4 ngân hàng triển khai dịch vụ chuyển khoản ngoài hệ thống cũng cho thấy một tín hiệu khả quan về nỗ lực của các nhà cung cấp trong việc tạo nhiều tiện ích hơn nữa cho người sử dụng và mở rộng phạm vi của giao dịch ngân hàng trực tuyến.
(iii) Một dịch vụ gia tăng mới của ngành ngân hàng
Ngân hàng trực tuyến là một dịch vụ gia tăng mới của các ngân hàng trong hai năm trở lại đây, mang lại nhiều lợi ích cho cả ngân hàng và người tiêu dùng. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến được nhận định là lợi thế cạnh tranh trong tương lai gần của các ngân hàng tại thị trường Việt Nam. Cả ngân hàng trong nước và nước ngoài đều đang từng bước triển khai dịch vụ này. Citibank là một ví dụ điển hình của ngân hàng nước ngoài triển khai dịch vụ trực tuyến tại chi nhánh ở Việt Nam.
Chương 2. Giao dịch điện tử
* CitiBank Việt Nam với dịch vụ ngân hàng trực tuyến
Năm 1995, Citibank là ngân hàng đầu tiên áp dụng hệ thống ngân hàng điện tử cho phép khách hàng tự thực hiện giao dịch qua mạng. Năm 2006, Citibank tiếp tục mở rộng dịch vụ để cung cấp cho khách hàng thông tin trực tuyến về trạng thái giao dịch thương mại của mình. Sau đó, Citibank triển khai giao diện đầu tư trực tuyến toàn cầu cho các quyền chọn đầu tư trong và ngoài nước.
Đến tháng 4/2007, Citibank Việt Nam đã chính thức giới thiệu sản phẩm toàn cầu đến Việt Nam là hai kênh dịch vụ Ngân hàng trực tuyến gồm dịch vụ Đầu tư Citibank Online và Dịch vụ thanh toán Thương mại điện tử CitiConnectSM. Với hai dịch vụ trực tuyến nêu trên, ngân hàng trực tuyến mà Citibank cung cấp được coi là khá hoàn hảo đối với người tiêu dùng. Dịch vụ trực tuyến cung cấp cho khách hàng bao gồm:
Thông tin báo cáo:
Tổng kết các khoản chi tiêu của tài khoản Thông tin các khoản giao dịch
Thông tin lãi suất
Báo cáo của ngân hàng Các chức năng nghiệp vụ
Thanh khoản, đầu tư điện tử
Chuyển khoản trong và ngoài hệ thống, chuyển khoản toàn cầu.
Các dịch vụ ngân hàng Việt Nam hiện nay tuy có nhiều chuyển biến nhưng vẫn còn khá nghèo nàn, trong đó các dịch vụ dựa trên nền công nghệ thông tin còn ít và chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế của WTO, các ngân hàng trong nước sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với những ngân hàng quốc tế có thế mạnh vượt trội cả về vốn, công nghệ, dịch vụ và năng lực quản lý. Thực tế này đang đặt ra yêu cầu cho ngành ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng phải nỗ lực hiện đại hoá công nghệ, nâng cấp dịch vụ cho khách hàng. Ngân hàng trực tuyến chính là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng,