Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn - 2


sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao, hiệu quả và bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới.

2.2. Mục tiêu cụ thể

- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại.

- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại nhằm phát hiện ra các yếu tố trở ngại và những tiềm năng để phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn.

- Phân tích hoạt động kinh tế trong trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm ra được những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến kết quả sản xuất và hiệu quả kinh tế của trang trại.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Hoạt động kinh tế của các trang trại cũng như ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.

- Đối tượng khảo sát: 100% số lượng trang trại hiện có tại thời điểm điều tra ở tỉnh Bắc Kạn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn - 2

3.3.1. Nội dung

- Số lượng, cơ cấu, loại hình, phương hướng sản xuất của các trang trại ở tỉnh Bắc Kạn.

- Tình hình sử dụng đất đai, lao động, vốn, thu nhập, bố trí sản xuất, bố trí cây trồng của các trang trại.

- Phân tích một số chỉ tiêu đánh gía kết quả, hiệu quả kinh tế của các trang trại.

3.3.2. Phạm vi về không gian: Toàn bộ tỉnh Bắc Kạn


3.3.3. Phạm vi thời gian

- Số liệu lịch sử: 7 năm từ 2001-2007.

- Số liệu hiện trạng năm 2006 (tiến hành điều tra năm 2007).

4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Tổng hợp và phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn.

- Tìm ra và đánh giá tác động của những yếu tố nội hàm và ngoại hàm ảnh hưởng đến kết qủa sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế các trang trại ở vùng nghiên cứu.

- Đề xuất hệ thống quan điểm, phương hướng và mục tiêu để phát triển kinh tế trang trại thời gian tới.

- Khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để tiếp tục thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.

5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn

Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại thời gian tới


Nội dung cụ thể các chương như sau:


Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


1.1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại

1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển trang trại

a) Quan niệm về trang trại

Lịch sử phát triển của nền nông nghiệp thế giới luôn tồn tại hai hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung và sản xuất phân tán [26].

Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung trên quy mô diện tích đất đủ lớn mang tính độc lập đã có từ rất lâu đời. Ngay từ thời đế quốc La mã đã tồn tại hình thức sản xuất tập trung trên diện tích lớn, lực lượng của yếu là tù binh và nô lệ. Thời phong kiến ở một số nước châu Âu có hình thức lãnh địa phong kiến và các trang viên. Ở Trung quốc thời nhà Hán đã có các hoàng trang, điền trang, đồn điền. Ở Việt nam hình thức sản xuất tập trung đã có từ thời phong kiến phương Bắc đô hộ.

Về mặt sở hữu thì trang trại hội tụ đủ mọi hình thức sở hữu.

Để biểu đạt loại hình kinh tế này, các nước đều có ngôn từ dùng để chỉ các hình thức tổ chức sản xuất tập trung (Farm, Farm stedd, Farm house (Anh); Ferme (Pháp); Fepma (Nga)…) khi chuyển sang tiếng Việt dịch là trang trại hay nông trại [25]; [19].

- Theo quan điểm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) và Ngân hàng thế giới (WB):

“Nông trại (Farm) của các nước châu Á gió mùa dùng để chỉ một khu đất canh tác nông nghiệp”.

- Theo PGS -TS Lê Trọng: “Trang trại là cơ sở, là doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp của một hoặc một số nhóm nhà kinh doanh” [17].


Qua đó “Trang trại” là thuật ngữ dùng để mô tả, chỉ và gắn liền với hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn, với quy mô hộ gia đình là chủ yếu, trong điều kiện sản xuất hàng hoá của nền kinh tế thị trường.

b) Phân loại trang trại

* Phân loại theo nguồn gốc hình thành: Có 3 con đường chính hình thành trang trại

- Trang trại được hình thành từ khu đất từ thời phong kiến: Đây là các trang trại hình thành từ các khu đất thuộc sở hữu tư nhân của tầng lớp quý tộc, địa chủ.

- Trang trại phát triển từ kinh tế hộ gia đình: Quá trình sản xuất đã diễn ra sự phân hoá giữa các hộ. Các hộ sản xuất thuận lợi sẽ phát triển cao hơn về quy mô và kết quả sản xuất mà hình thành các trang trại [22].

- Trang trại hình thành theo kiểu xí nghiệp TBCN: Các nhà tư bản đầu tư vốn vào sản xuất nông lâm nghiệp, họ bỏ tiền mua máy móc thiết bị, thuê đất đai và thuê lao động kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa hình thành các trang trại.

Hiện nay trang trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Trang trại theo kiểu xí nghiệp tư bản còn tồn tại nhưng giới hạn trong một số ngành có giá trị cao như chăn nuôi gia súc, đại gia súc theo huớng xuất khẩu.

* Phân loại trang trại theo hình thức quản lý:

- Trang trại gia đình: Là loại trang trại độc lập tự sản xuất kinh doanh. Mỗi gia đình có tư cách pháp nhân do một người trong gia đình làm chủ điều hành.

- Trang trại liên doanh: Do vài trang trại hợp nhất để tăng nguồn lực tạo sức cạnh tranh và sự ưu đãi của nhà nước (ở Mỹ số lượng trang trại này chiếm 10% số lượng và 16% diện tích).


- Trang trại hợp doanh theo cổ phần: Trang trại loại này được tổ chức theo nguyên tắc công ty cổ phần (ở Mỹ trang trại loại này chiếm 2,7% và 13,7% diện tích đất đai [7].

- Trang trại uỷ thác: Trang trại mà người chủ uỷ quyền cho người nhà, bạn bè quản lý điều hành sản xuất (Đài loan thường có loại trang trại này) [15].

* Phân loại trang trại theo phương hướng sản xuất:

- Trang trại kinh doanh tổng hợp: Trang trại này thường kết hợp sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp ngành nghề và dịch vụ.

- Trang trại chuyên môn hoá: Phương hướng sản xuất chỉ phát triển một ngành hoặc một sản phẩm như sản xuất ngũ cốc, chăn nuôi gia súc.

* Phân loại theo nguồn thu nhập:

- Nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp: Xu thế trang trại loại này đang giảm dần (năm 1985 Nhật Bản có 15% số trang trại thuộc loại này).

- Trang trại có thu nhập thêm từ bên ngoài trang trại, loại này thường kinh doanh tổng hợp và xu thế ngày càng tăng.

* Các phương thức điều hành sản xuất:

- Chủ trang trại vừa điều hành vừa trực tiếp tham gia sản xuất: Loại trang trại này chủ hộ thường là nông dân, hiện nay hình thức này là phổ biến.

- Chủ trang trại và gia đình không ở trang trại nhưng vẫn điều hành sản xuất: Hình thức này không nhiều nhưng đang có xu hướng phát triển ở các nước công nghiệp phát triển.

- Chủ trang trại nhỏ có ít ruộng đất, không điều hành sản xuất mà uỷ quyền cho người thân quản lý trang trại của mình theo từng vụ hay nhiều năm.

* Phân loại theo tiến trình hình thành và phát triển:

Sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp đi từ bậc thấp lên bậc cao, từ nền sản xuất tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá mà hình thành các trang trại.


- Hộ nông dân nhỏ: Quy mô sản xuất nhỏ, ruộng đất ít, sản xuất bằng công cụ thô sơ, mục đích đảm bảo thức ăn cho cuộc sống gia đình.

- Trang trại truyền thống: Đất đai được khai khẩn thêm về diện tích, bắt đầu có sự tích tụ đất đai, lao động chủ yếu là lao động của gia đình. Sản phẩm sản xuất ra phần lớn dùng để tiêu dùng.

- Trang trại sản xuất trồng trọt hoặc chăn nuôi nhỏ: Quy mô diện tích được tích tụ lớn hơn, sản xuất được phân định ra với vài loại cây trồng, vật nuôi chủ yếu, sản xuất phần lớn là thủ công, một phần máy móc.

- Trang trại sản xuất đa dạng hoá: Sản xuất thâm canh có tưới nước, lao động kết hợp thủ công và máy móc, sản phẩm đa dạng hoá nhằm đảm bảo thu nhập bền vững, chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hóa.

- Trang trại chuyên môn hoá: Sử dụng lao động gia đình và thuê ngoài, sản xuất thâm canh đạt hiệu quả cao chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hoá.

- Trang trại tự động hoá: Đang phát triển ở các nước phát triển trên thế giới trong ngành chăn nuôi, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu.

1.1.1.2. Khái niệm về kinh tế trang trại

Hệ thống lại lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế Việt nam và thế giới đã đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại như sau:

- Theo một số học giả phương Tây:

“Hình thức kinh tế trang trại ở các nước này dùng để chỉ một lĩnh vực tổ chức sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá lớn ở nông nghiệp nông thôn để phân biệt với hình thức tiểu nông tự túc, tự cấp”.

- Theo PGS - TS Lê Trọng: “Kinh tế trang trại (hay kinh tế nông lâm ngư trại…) là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội, dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội. Bao gồm một số người lao động nhất định được chủ trang trại tổ chức, trang bị những tư liệu sản xuất nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và được nhà nước bảo hộ” [17].


- Theo ông Trần Tác, Phó Vụ trưởng - Vụ Kinh tế Trung ương Đảng: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn trong

nông, lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn. Có sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, có phương pháp tạo ra tỷ suất sinh lời cao hơn bình thường trên đồng vốn bỏ ra, có trình độ đưa các thành tựu khoa học, công nghệ mới kết tinh trong hàng hoá, tạo ra sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao”.

- Theo Phó Giáo sư Đào Công Tiên - trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh: “Kinh tế trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, phổ biến được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế hộ và về cơ bản giữ bản chất kinh tế hộ. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại là quá trình nâng cao năng lực sản xuất dựa trên cơ sở tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao”.

Tóm lại: Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về Kinh tế trang trại của Chính phủ, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản. Mặt khác, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23.6.2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn có hai nhóm đối tượng có thể tham gia đầu tư sản xu ất theo mô hình trang trại, đó là hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị (gọi chung là hộ gia đình) và cá nhân. Từ đó, hình thành nên hai loại hình kinh doanh là trang trại gia đình trang trại cá nhân.


Trong phạm vi luận văn này tác giả có giới hạn việc nghiên cứu, chỉ tập trung vào loại hình trang trại gia đình trong hệ thống các loại hình trang trại đang hoạt động trong cơ chế thị trường ở nước ta. Để làm được điều đó, một trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là “nhận dạng” một cách đầy đủ, rò ràng về loại hình kinh doanh mới này để từ đó có những biện pháp quản lý phát triển phù hợp.

1.1.1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế trang trại

Quan điểm của các nhà kinh điển về tính tất yếu tồn tại kinh tế hộ gia đình nông dân và kinh tế trang trại.

* Tính tất yếu khách quan của tồn tại và phát triển kinh tế hộ nông dân

Không phải bây giờ các nhà kinh tế mới bàn đến vai trò của kinh tế hộ nông dân đối với sự phát triển nông nghiệp mà ngay từ cuối thế kỷ XIX Mác, Ăng-ghen đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân. Lúc đầu nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh, Mác đã tiên đoán với quá trình tách người nông dân khỏi ruộng đất một cách ồ ạt thì giai cấp nông dân bị thủ tiêu và nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản xuất như trong công nghiệp. Nghĩa là trong nông nghiệp sẽ hình thành các “Đại điền trang” Tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê. Quá trình đó sẽ tách người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất, mà trước hết là ruộng đất.

Sau này kinh nghiệm lịch sử của những nước công nghiệp phát triển đã làm chuyển biến nhận thức của Mác và ông phải công nhận là những tiên đoán khái quát ban đầu của mình trước kia về thực tiễn đã không được, không thiết lập ngay cả ở nước Anh siêu công nghiệp. Bất chấp xu hướng ban đầu theo kiểu “dọn sạch mặt đất”. Ở nước Anh công nghiệp phát triển, song nông trại gia đình trên thực tế không sử dụng lao động làm thuê vẫn ngày càng phát triển và càng tỏ rò sức sống cũng như hiệu quả của nó.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/06/2022