Thống kê doanh nghiệp - 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THỐNG KÊ DOANH NGHIỆP

1.1. Khái quát về thống kê doanh nghiệp

“Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của thống kê cho thấy: Thống kê học là một môn khoa học xã hội. Tuy nhiên, khác với các môn học xã hội khác, thống kê học không trực tiếp nghiên cứu mặt chất của hiện tượng mà nó chỉ phản ánh bản chất, tính quy luật của hiện tượng thông qua các con số, các biểu hiện về lượng của hiện tượng. Điều đó có nghĩa là thống kê học phải sử dụng các con số về quy mô, kết cấu quan hệ tỉ lệ, quan hệ so sánh, trình độ phát triển, trình độ phổ biến,… của hiện tượng để phản ánh, biểu thị bản chất, tính quy luật của hiện tượng nghiên cứu trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Như vậy, các con số thống kê không phải chung chung, trừu tượng mà bao giờ cũng chứa đựng một nội dung kinh tế, chính trị, xã hội nhất định, giúp chúng ta nhận thức được bản chất và quy luật của hiện tượng nghiên cứu.

Theo quan điểm triết học, chất và lượng là hai mặt không thể tách rời của mọi sự vật, hiện tượng, giữa chúng luôn tồn tại mối liên hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, sự thay đổi về lượng quyết định sự biến đổi về chất. Quy luật lượng - chất của triết học đã chỉ rò: mỗi lượng cụ thể đều gắn với một chất nhất định, khi lượng thay đổi và tích lũy đến một chừng mực nhất định thì chất thay đổi theo. Vì vậy, nghiên cứu mặt lượng của hiện tượng sẽ giúp cho việc nhận thức bản chất của hiện tượng. Có thể đánh giá thành tích sản xuất của một doanh nghiệp qua các con số thống

kê về tổng số sản phẩm làm ra, giá trị sản xuất đạt được, tỉ lệ hoàn thành kế hoạch sản xuất, giá thành đơn vị sản phẩm, năng suất lao động và thu nhập của công nhân.”[7]

Từ những năm 90 của thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Do đó, cơ chế quản lý kinh tế cũng chuyển từ cơ chế hành chính bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất của nhà nước chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường. Sự đổi mới căn bản của cơ chế quản lý này bắt buộc các doanh nghiệp phải hạch toán chặt chẽ. Nghĩa là thực hiện nguyên tắc lấy thu bù chi và phải có lãi. Doanh nghiệp phải đảm bảo tự thu, tự chi, tự phát triển, tự chịu trách nhiệm và tự quyết định các vấn đề về mục tiêu, phương hướng sản xuất kinh doanh.

Khi nền kinh tế phát triển nhanh cả về quy mô lẫn tốc độ, cả chiều rộng lẫn chiều sâu thì vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải năng động và thị trường để đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển vững mạnh. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến diễn biến của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh

và hiệu quả đạt được. Các doanh nghiệp phải nắm bắt đầy đủ, chính xác và kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong kỳ hạch toán. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp mới phân tích, đánh giá được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. Vì vậy, nắm bắt đầy đủ, chính xác kịp thời mọi diễn biến của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng, là vấn đề không thể thiếu được trong mỗi doanh nghiệp. Nó được thể hiện qua số liệu thống kê kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, thống kê chất lượng sản phẩm, thống kê các yếu tố sản xuất, thống kê giá thành và thống kê hiệu quả hoạt động kinh doanh. Qua đó giúp cho các nhà quản lý có thể đánh giá chính xác về hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đề ra các biện pháp tích cực, khoa học và đưa ra các quyết định kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

1.2. Các khái niệm chung về thống kê

1.2.1. Định nghĩa

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

“Thống kê là một hệ thống các phương pháp bao gồm thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu, tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và đề ra các quyết định.” [4]

1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của thống kê

Thống kê doanh nghiệp - 1

1.2.2.1. Chức năng của thống kê

Thống kê thường nghiên cứu hai lĩnh vực là thống kê mô tả và thống kê suy diễn

a. Thống kê mô tả

“Thống kê mô tả bao gồm các phương pháp liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu.” [4]

b. Thống kê suy diễn

“Thống kê suy diễn bao gồm các phương pháp ước lượng các đặc trưng của tổng thể nghiên cứu, phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng nghiên cứu, dự đoán hoặc đề ra các quyết định trên cơ sở các số liệu thu thập được.” [4]

1.2.2.2. Nhiệm vụ của môn học thống kê doanh nghiệp

Thống kê doanh nghiệp là một môn khoa học thống kê để phục vụ cho công tác quản lý của doanh nghiệp, do đó môn học này thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Nghiên cứu đề xuất các phương pháp thu thập thông tin thống kê kịp thời, chính xác, đầy đủ phản ánh tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng các yếu tố của quá trình

sản xuất, đồng thời nghiên cứu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.

- Thu thập thông tin phản ánh tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, thống kê phân tích giá thành, giá bán và xác định mức cầu thị trường, để điều chỉnh kế hoạch sản xuất cho thích hợp.

- Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê, phân tích các mặt hoạt động, hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp.

- Thống kê tổng hợp và xử lý thông tin đã thu thập, làm cơ sở ứng dụng thống kê trong công tác quản lý doanh nghiệp.

1.3. Ðối tượng và phương pháp nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp

1.3.1. Đối tượng

Xét một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp là mặt lượng trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế - tài chính số lớn phát sinh trong quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể.

Là một bộ phận quan trọng của thống kê học, đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp trước hết cũng có những đặc điểm chung giống đối tượng nghiên cứu của thống kê học. Song thống kê doanh nghiệp cũng là một môn khoa học xã hội độc lập nên đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp cũng có những đặc thù riêng. “Đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp được thể hiện ở những nội

dung cơ bản sau:

- Thống kê doanh nghiệp nghiên cứu mặt lượng trong mối quan hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế - tài chính. Mỗi hiện tượng đều có hai mặt: mặt chất và mặt lượng, hai mặt này luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy, nghiên cứu một cách khoa học mặt lượng của các hiện tượng kinh tế - tài chính người làm công tác thống kê trước hết cần phải hiểu rò bản chất và quy luật phát triển của chúng. Nói một cách khác, để nghiên cứu mặt lượng của các hiện tượng trước hết cần phải hiểu rò mặt chất của chúng. Ngược lại, qua mặt lượng cụ thể của các hiện tượng có thể kiểm chứng được quy luật phát triển của các hiện tượng đó.

- Thống kê doanh nghiệp nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính số lớn.

Hiện tượng kinh tế là việc tìm hiểu xem xã hội nói chung các doanh nghiệp nói riêng sử dụng như thế nào với nguồn lực (lao động, đất đai, tài nguyên, khả năng quản lý và công nghệ) là có hạn để sản xuất ra hàng hóa (sản phẩm, vật chất, dịch vụ) cần thiết nhằm thỏa mãn những nhu cầu vô hạn của các thành viên trong xã hội.

Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các

nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Hay nói vắn tắt, tài chính là quá trình tạo lập, phân bổ và sử dụng các quỹ tiền tệ một cách chặt chẽ.

Như vậy, thống kê doanh nghiệp không chỉ nghiên cứu tình hình sử dụng tất cả các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất trong doanh nghiệp như: Lao động, tài sản cố định và nguyên, nhiên vật liệu tham gia vào quá trình sản xuất, kết quả sản xuất mà còn nghiên cứu nguồn hình thành và tình hình sử dụng các loại vốn kinh doanh trong doanh nghiệp.

Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp là mặt lượng của số lớn các hiện tượng kinh tế - tài chính (hay mặt lượng của tổng thể các hiện tượng cá biệt). Thông qua mặt lượng của số lớn hiện tượng, tác động của nhân tố ngẫu nhiên đến mặt lượng của các hiện tượng cá biệt được bù trừ, triệt tiêu, bản chất và tính quy luật của hiện tượng nghiên cứu mới có khả năng thể hiện rò rệt. Mặt lượng của hiện tượng sau khi tổng hợp có thể biểu hiện được bản chất và quy luật của hiện tượng nghiên cứu. Tuy nhiên giữa hiện tượng số lớn và hiện tượng cá biệt có quan hệ biện chứng. Hơn nữa trong quá trình phát triển của hiện tượng kinh tế xã hội thường nảy sinh nhiều hiện tượng cá biệt mới tiên tiến vì vậy cũng cần phải kết hợp nghiên cứu hiện tượng số lớn và hiện tượng cá biệt để kết quả nghiên cứu được sâu sắc và toàn diện hơn.

- Hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh ở mọi lĩnh vực, ngành từ tầm vi mô đến tầm vĩ mô trong nền kinh tế, nhưng chỉ thuộc đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp khi hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh trong các doanh nghiệp sản xuất. Cùng với thời gian có nhiều trường phái, quan điểm khác nhau về sản xuất, nhưng theo quan niệm của các nhà kinh tế thị trường cho rằng: sản xuất là mọi hoạt động của con người với tư cách pháp nhân hay một tổ chức bằng năng lực quản lý của mình cùng với các yếu tố tài nguyên, đất đai và vốn, sản xuất ra những sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu ích và có hiệu quả, nhằm htoar mãn nhu cầu sử dụng cho sản xuất, sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của đời sống sinh hoạt hộ gia đình dân cư, nhà nước, tích lũy tài sản để mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống xã hội, xuất khẩu ra nước ngoài... Như vậy, theo quan niệm của các nhà kinh tế thị trường cho rằng các hiện tượng kinh tế, tài chính phát sinh trong các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm vật chất, dịch vụ hữu ích đều thuộc đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp.

- Thống kê doanh nghiệp nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh trong quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp sản xuất, trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể.

Như phần trên đã phân tích, các hiện tượng phát sinh trong quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp bao gồm:

+ Các hiện tượng phản ánh đầu vào của quá trình sản xuất như: lao động, đất đai, nguyên vật liệu...

+ Các hiện tượng phản ánh đầu ra như: sản lượng, doanh thu...

+ Các hiện tượng phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp như các chỉ tiêu thống kê khối lượng vốn và tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp. ” [3]

Các hiện tượng này luôn tồn tại trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Vì vậy, khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh trong các doanh nghiệp sản xuất, thống kê doanh nghiệp luôn cần phải chú ý đến điều kiện, thời gian và không gian cụ thể của hiện tượng nghiên cứu.

Như vậy, thống kê doanh nghiệp cần phải xác định: các doanh nghiệp vừa là đối tượng phục vụ vừa là phạm vi nghiên cứu của mình.

Trong từng doanh nghiệp hạch toán thống kê bao gồm nhiều bộ phận: thống kê lao động – tiền lương, thống kê vật tư, thống kê giá thành... Các bộ phận này tuy độc lập thi hành tác nghiệp chuyên môn của thống kê, nhưng vẫn phải đảm bảo thống nhất ba bộ phận hạch toán (hạch toán thống kê, hạch toán kế toán, hạch toán nghiệp vụ - kỹ thuật) trong một doanh nghiệp về nguồn số liệu do chế độ ghi chép ban đầu cung cấp.

1.3.2. Phương pháp nghiên cứu môn học

1.3.2.1. Cơ sở phương pháp luận của môn học

Cơ sở phương pháp luận của thống kê học và thống kê doanh nghiệp nói riêng là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thống kê luôn biểu hiện mặt lượng của hiện tượng kinh tế xã hội, thông qua mặt lượng nói lên mặt chất. Thống kê doanh nghiệp lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở lư luận, điều đó được thể hiện trên các phương diện sau:

- Phải phân tích và đánh giá quá trình hoạt động của doanh nghiệp trong trạng thái động.

- Xem xét các mặt, các hoạt động, các quá trn trong mối quan hệ biện chứng, quan hệ nhân quả.

h kinh doanh c ủa doanh nghiệp

- Xây dựng các phương pháp đo lường, các chỉ tiêu và các công thức tính toán mang tính hệ thống, logic, . . .

1.3.2.2. Cơ sở lý luận của môn học

Cơ sở lý luận của môn học là các học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác Lênin và kinh tế thị trường. Các môn khoa học này trang bị cho các nhà thống kê hiểu nội dung kinh tế của các chỉ tiêu thống kê một cách sâu sắc.

Ngoài ra, thống kê còn là công cụ phục vụ công tác quản lý, vì vậy phải lấy đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở lý luận.

Trong quá trình nghiên cứ, thống kê doanh nghiệp sử dụng nhiều phương pháp chuyên môn của thống kê như: phương pháp quan sát số lớn, phương pháp phân tổ, phương pháp chỉ số...

Tổng hợp lý luận của các phương pháp này được gọi là phương pháp luận của thống kê doanh nghiệp. Cơ sở khoa học để xây dựng hệ thống lý luận các phương pháp thống kê doanh nghiệp được gọi là cơ sở phương pháp luận thống kê doanh nghiệp. Cơ sở phương pháp luận của thống kê doanh nghiệp là chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là khoa học về các quy luật chung nhất của thế giới vật chất và tư duy về các dạng vận động của vật chất. Trong đó, hiện tượng kinh tế - tài chính là một dạng vận động cao nhất của thế giới vật chất. Trong đó, hiện tượng kinh tế tài chính là một dạng vận động cao nhất.

1.4. Doanh nghiệp và cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp

1.4.1. Khái niệm về doanh nghiệp

Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế được tổ chức ra để sản xuất kinh doanh, nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng vật chất hoặc tinh thần của các cá nhân và cộng đồng với mục tiêu thu lợi nhuận, tích luỹ vốn tiếp tục phát triển kinh doanh.

1.4.2. Cơ cấu tổ chức sản xuất trong một doanh nghiệp

Nếu dựa vào quá trình kỹ thuật thì doanh nghiệp bao gồm nhiều đoạn sản xuất.

Nếu dựa vào mặt tổ chức quản lý hành chính thì doanh nghiệp bao gồm nhiều phân xưởng sản xuất.

1.4.2.1. Đoạn sản xuất

Đoạn sản xuất là một giai đoạn kỹ thuật hoàn chỉnh nhất định trong toàn bộ quá trình sản xuất một sản phẩm trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp sản xuất có thể có một hoặc nhiều đoạn sản xuất khác nhau, tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất.

- Doanh nghiệp chỉ có 1 đoạn sản xuất được gọi là doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn như các doanh nghiệp sản xuất điện, nước,v.v .

- Doanh nghiệp có từ 2 đoạn sản xuất trở lên được gọi là doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp như các doanh nghiệp cơ khí, dêt, may,v.v.

1.4.2.2. Phân xưởng sản xuất

Trong doanh nghiệp sản xuất, nếu căn cứ vào cơ cấu tổ chức sản xuất thì doanh nghiệp bao gồm các phân xưởng sản xuất. Phân xưởng sản xuất là một đơn vị sản xuất độc lập về mặt hành chính trong doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh thường được tiến hành qua các phân xưởng.

Trong một doanh nghiệp, giữa các phân xưởng và đoạn sản xuất có thể thống nhất hoặc không thống nhất về quy trình tổ chức quản lý sản xuất, trình độ tay nghề, trình độ trang bị kỹ thuật trong từng doanh nghiệp.

Các phân xưởng trong doanh nghiệp chia thành 4 loại:

- Phân xưởng sản xuất cơ bản (phân xưởng sản xuất chính): là phân xưởng sản xuất ra sản phẩm chủ yếu trong doanh nghiệp hoặc sản xuất ra những bán thành phẩm, chi tiết chủ yếu của sản phẩm.

- Phân xưởng sản xuất phụ: là những phân xưởng tận dụng phế liệu, vật liệu thừa, cặn bã thu hồi được trong quá trình sản xuất sản phẩm chính, để sản xuất ra các sản phẩm khác với sản phẩm chính được gọi là sản phẩm phụ.

- Phân xưởng sản xuất phụ trợ: là những bộ phận, phân xưởng làm cho quá trình sản xuất được liên tục, không gián đoạn. Ví dụ phân xưởng cơ điện, sửa chữa . . .

- Phân xưởng sản xuất phụ thuộc: là những phân xưởng chuyên sản xuất ra những sản phẩm dùng làm bao bì đóng gói cho những sản phẩm chủ yếu hoặc sản xuất ra những vật liệu cung cấp cho phân xưởng cơ bản.

1.5. Hệ thống thông tin thống kê phục vụ quản lý doanh nghiệp

1.5.1. Vai trò của thông tin thống kê đối với quản lý doanh nghiệp

Thông tin thống kê luôn gắn liền với quá trình quản lý và ra quyết định đối với cấp quản lý. Bởi vì, trong quản lý và ra quyết định đòi hỏi phải nắm được hiện tượng kinh tế xã hội có liên quan một cách chuẩn xác.

Những thông tin quan trọng nhất mà bất kỳ một nhà quản lý doanh nghiệp nào cũng phải nắm được bao gồm:

- Thông tin xác định phương hướng sản xuất kinh doanh

Trước khi xây dựng mới doanh nghiệp hoặc thay đổi phương hướng sản xuất kinh doanh, người có quyền ra quyết định phải nắm được thông tin về:

+ Quan hệ cung cầu mặt hàng này ở trong và ngoài nước

+ Tình hình phát triển của các mặt hàng có khả năng thay thế các mặt hàng hiện tại.

+ Giá cả các yếu tố đầu vào và giá tiêu thụ mặt hàng này ở thị trường trong và ngoài nước.

+ Trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật đối với quá trình phát triển của mặt hàng này tron hiện tại và tương lai.

Hệ thống thông tin trên lại phụ thuộc rất nhiều yếu tố kinh tế - xã hội khác có liên quan. Xét về quan hệ cung cầu lại phụ thuộc vào hàng loạt các thông tin khác nhau. Nếu sản phẩm đó phục vụ cho nhu cầu sản xuất thì phải xuất phát từ thông tin về suất đầu tư của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nếu nó là sản phẩm tiêu dùng của dân cư thì phải có được các thông tin liên quan đến thu nhập của dân cư, tỷ lệ quỹ tiêu dùng của

dân cư dành cho tiêu dùng sản phẩm này, khả năng sản xuất ra và sự biến động có thể về giá cả các sản phẩm thay thế. Ngoài ra, còn phải xem xét khả năng xuất khẩu trên cơ sở các thông tin về ngoại thương. Đây là những vấn đề hết sức phức tạp liên quan đến việc thiết lập hệ thống thông tin để lập bảng cân đối liên ngành.

- Thông tin đảm bảo lợi thế cạnh tranh

Sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải có sự cạnh tranh gay gắt trên thương trường. Mọi doanh nghiệp đều phải xuất hiện trên thương trường đây là điểm khác biệt với cơ chế quản lý kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch hóa tập trung. Để chiến thắng trong cạnh tranh, một mặt đòi hỏi các cơ sở sản xuất phải bí mật thông tin về tình hnhf sản xuất và chi phí sản xuất của đơn vị mình, mặt khác lại phải nắm bắt được các thông tin trên ở các đối thủ cạnh tranh.

Để giải quyết mâu thuẫn này, đòi hỏi các doanh nghiệp vừa phải tổ chức thu thập thông tin nội bộ doanh nghiệp vừa phải tổ chức các cuộc điều tra chuyên môn trên thị trường để có các thông tin về đối thủ cạnh tranh như điều tra thị hiếu, điều tra nhu cầu, giá cả thích hợp, khả năng thanh toán của dân cư.

- Thông tin phục vụ tối ưu hóa sản xuất

Đây là thông tin có liên quan đến việc cung cấp và sử dụng các yếu tố đầu vào như lao động, nguyên vật liệu, thiết bị máy móc... Trong nền kinh tế thị trường thì đầu ra do thương trường quyết địnhmột cách khắt khe nhưng đầu vào còn tùy thuộc một phần vào việc tìm kiếm nó trên thị trường của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, việc tìm kiếm của các yếu tố này đã vượt ra ngoài phạm vi của một vùng, thậm chí của một quốc gia. Người ta có thể tìm thấy nó trên phạm vi toàn cầu do xu hướng toàn cầu hóa.

- Thông tin về kinh tế vĩ mô

Những thông tin về kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng để các doanh nghiệp dự đoán xu thế phát triển trong tương lai gần và tương lai xa, nhằm tìm ra phương hướng, bước đi phù hợp vớ tình hình chung, tranh thủ thời cơ và khắc phục rủi ro trong hoạt động của mình.

Xét trên giác độ tổ chức, việc cung cấp thông tin từ bên ngoài vào gồm có:

+ Thông tin quản lý: Gồm những thông tin mới nhất về các quan điểm và các loại ý kiến mới nhất rút ra từ các hội thảo khoa học phục vụ cho việc ra quyết định: kinh nghiệm quản lý tiên tiến, những văn bản mới về pháp luật, các chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.

+ Thông tin kinh tế: bao gồm những thông tin về giá cả, thị trường tài chính, thương mại...

+ Thông tin khoa học – kỹ thuật trong và ngoài nước, chọn và đánh giá công nghệ mà doanh nghiệp có thể nhập, giới thiệu và chuyển giao.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/07/2022