- Yêu cầu xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và được ưu tiên thanh toán.
2.3.3.Quyền và nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp
2.3.3.1. Quyền của người thứ ba giữ tài sản thế chấp
Điều 353, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định quyền của người thứ ba giữ tài sản thế chấp bao gồm:
- Được khai thác công dụng tài sản thế chấp, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp, nếu có thoả thuận;
- Được trả thù lao và được thanh toán chi phí bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2.3.3.2. Nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp
Điều 352, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định người thứ ba giữ tài sản thế chấp có nghĩa vụ sau:
- Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp; nếu làm mất tài sản thế chấp, làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp thì phải bồi thường;
- Không được tiếp tục khai thác công dụng tài sản thế chấp, trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 353 của Bộ luật này, nếu việc tiếp tục khai thác có nguy cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp;
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt Động Của Các Tổ Chức Tín Dụng Và Vai Trò Của Thế Chấp Tài Sản Tại Các Tổ Chức Tín Dụng Tại Việt Nam
- Công Chứng, Chứng Thực Hợp Đồng Thế Chấp Tài Sản
- Nội Dung Đăng Ký Thế Chấp Tài Sản A)Cơ Quan Đăng Ký Thế Chấp:
- Chủ Thể Trong Giao Dịch Thế Chấp Tài Sản Bảo Đảm
- Về Việc Thế Chấp Bất Động Sản Không Kèm Theo Đất Và Ngược
- Về Thủ Tục Tố Tụng Xử Lý Tài Sản Thế Chấp
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
- Giao lại tài sản thế chấp cho Bên nhận thế chấp hoặc Bên thế chấp theo thoả thuận.
2.4. Xử lý tài sản thế chấp
2.4.1.Các trường hợp xử lý tài sản thế chấp
Căn cứ theo quy định tại Điều 355 về “Xử lý tài sản thế chấp’, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 56 về “Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm, các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm bao gồm:
- Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà Bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Đối với các hợp đồng tín dụng là việc khách hàng vay không trả nợ cho tổ chức tín dụng khi đến thời hạn đã thỏa thuận với tổ chức tín dụng.
- Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Trong các hợp đồng tín dụng, căn cứ theo quy định của pháp luật, tổ chức tín dụng và khách hàng vay có thể thỏa thuận việc khách hàng phải trả nợ trước hạn do việc sử dụng tiền vay không đúng mục đích đã thỏa thuận,… khi đó nếu khách hàng không có khả năng trả nợ, thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản thế chấp.
- Pháp luật quy định tài sản thế chấp phải được xử lý để Bên thế chấp thực hiện nghĩa vụ khác.
- Các trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định. Ví dụ như việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong trường hợp hợp đồng thế chấp đã được đăng ký trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi theo quy định của pháp luật.
2.4.2.Nguyên tắc xử lý tài sản thế chấp
Khi xảy ra các trường hợp xử lý tài sản thế chấp nêu trên, việc thế chấp tài sản phải tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Điều 59 về “Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm”, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP Về giao dịch bảo đảm, bao gồm:
- Trong trường hợp tài sản thế chấp được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của các bên; nếu không có thoả thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật;
- Trong trường hợp tài sản thế chấp được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của Bên thế chấp và các Bên cùng nhận thế chấp; nếu không có thoả thuận hoặc không thoả thuận được thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật;
- Việc xử lý tài sản thế chấp phải được thực hiện một cách khách quan, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch thế chấp, cá nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với các quy định của pháp luật;
- Người xử lý tài sản thế chấp là Bên nhận thế chấp hoặc người được Bên nhận thế chấp ủy quyền, trừ trường hợp các Bên có thoả thuận khác;
- Việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ không phải là hoạt động kinh doanh tài sản của Bên nhận thế chấp.
Việc quy định các nguyên tắc xử lý tài sản thế chấp nêu trên một mặt thể hiện sự tôn trọng quyền thỏa thuận của các Bên, mặt khác vẫn bảo đảm hoạt động này được diễn ra công khai, minh bạch, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các Bên có liên quan và cũng giúp cho hoạt động này được thực hiện một cách thống nhất.
2.4.3.Phương thức xử lý tài sản thế chấp
Về phương thức xử lý tài sản thế chấp, trước tiên được xác định theo phương thức do các Bên thỏa thuận, trường hợp các Bên không có thỏa thuận sẽ thực hiện theo phương thức do pháp luật quy định. Cụ thể như sau:
- Theo thỏa thuận của các Bên: Thông thường, nếu các Bên không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản thế chấp, thì sẽ áp dụng biện pháp bán đấu giá. Tuy nhiên, pháp luật cho phép các Bên thỏa thuận phương thức xử lý tài sản thế chấp:
+ Bán tài sản thế chấp không qua đấu giá: Các Bên có thể thỏa thuận về việc lựa chọn bên mua, phương thức lựa chọn, giá bán,…;
+ Bên nhận thế chấp nhận chính tài sản thế chấp để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của Bên thế chấp. Đây cũng là một phương thức được nhiều tổ chức tín dụng áp dụng khi xử lý tài sản thế chấp;
+ Bên nhận thế chấp nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ: Bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu người thứ ba là người có nghĩa vụ trả nợ chuyển giao các khoản tiền hoặc tài sản khác cho mình hoặc cho người được uỷ quyền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ trả nợ yêu cầu thì Bên nhận thế chấp phải chứng minh quyền được đòi nợ; trong trường hợp Bên nhận thế chấp đồng thời là người có nghĩa vụ trả nợ thì Bên nhận thế chấp được bù trừ khoản tiền đó.
+ Phương thức khác do các bên thoả thuận.
- Trường hợp các Bên không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản thế chấp thì tài sản thế chấp sẽ được bán thông qua đấu giá.
2.4.4.Thời hạn xử lý tài sản thế chấp
Theo quy định của pháp luật, thì việc xác định thời hạn xử lý tài sản thế chấp trước hết căn cứ theo thỏa thuận giữa Bên thế chấp và Bên nhận thế chấp; nếu các Bên không có thoả thuận thì người xử lý tài sản có quyền quyết định về thời hạn xử lý, nhưng không được trước bảy ngày đối với động sản hoặc mười lăm ngày đối với bất động sản, kể từ ngày thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm, trừ trường hợp đối với tài sản thế chấp có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị, quyền đòi nợ, giấy tờ có giá, thẻ tiết kiệm, vận đơn thì người xử lý tài sản có quyền xử lý ngay, đồng thời phải thông báo cho các Bên nhận bảo đảm khác về việc xử lý tài sản đó.
Chương 3
PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN CỦA VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
3.1. Khái quát về thực trạng pháp luật giao dịch bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng
Qua quá trình hình thành, phát triển và dần hoàn thiện, pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm nói chung và thế chấp tài sản nói riêng đã đạt được những thành tựu nhất định: Một số vấn đề trước đây chưa được quy định cụ thể và thống nhất, thì nay đã được hoàn thiện; nhiều quy định bất cập, chưa phù hợp với thực tế đã được bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung... Tuy nhiên các văn bản pháp quy về thế chấp tài sản hiện nay được ban hành tương đối nhiều; nội dung về thế chấp tài sản không chỉ được quy định tại các văn bản pháp luật quy định trực tiếp như: Bộ luật Dân sự và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn về giao dịch bảo đảm, tài sản bảo đảm,... mà còn được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như: Bộ luật Hàng hải năm 2005, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006,... cũng chứa đựng rất nhiều những quy định liên quan như: Việc thế chấp tàu biển, nguyên tắc thế chấp, đăng ký thế chấp,... Điều này đã dẫn đến tình trạng các quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm hiện nay còn tản mạn, chồng chéo, phức tạp, mâu thuẫn gây không ít khó khăn cho việc theo dõi, thực hiện.
Chính vì vậy, một số tác giả đã có kiến nghị: Xem xét lựa chọn 1 trong 3 phương án quy định và sửa đổi về giao dịch bảo đảm theo thứ tự ưu tiên lần lượt như sau:
Sửa đổi tập trung các quy định về giao dịch bảo đảm trong Bộ luật Dân sự năm 2005, đồng thời loại bỏ các quy định về giao dịch bảo đảm trong các đạo luật khác; Ban hành một đạo luật riêng
về giao dịch bảo đảm; Sửa đổi Bộ luật Dân sự, đồng thời với việc sửa đổi các đạo luật liên quan (giữ nguyên như hiện nay) [17].
3.1.1. Sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật giao dịch bảo đảm tiền vay
Hệ thống quy định pháp luật còn chồng chéo, phức tạp, mâu thuẫn, khó theo dõi và thực hiện cũng dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất từ phía các cá nhân, tổ chức với tư cách là các bên trong giao dịch thế chấp, từ phía các công chứng viên, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tư pháp. Minh chứng rõ nhất là việc một số cơ quan tư pháp cho rằng biện pháp thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba phải được gọi đúng là hợp đồng bảo lãnh, đã dẫn đến việc Tòa án tuyên vô hiệu các hợp đồng thế chấp tài sản của Bên thứ ba.
3.1.2. Sự không thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến giao dịch bảo đảm tiền vay và tài sản bảo đảm.
Một trong những bất cập của hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm nói chung và giao dịch bảo đảm tiền vay nói riêng xuất phát từ nguyên nhân nội tại của chính các văn bản này. Khi mà về cùng một vấn đề nhưng giữa các văn bản pháp luật khác nhau lại có quy định hoàn toàn khác nhau. Hệ quả là đã khiến cho các tổ chức, cá nhân thực thi pháp luật gặp muôn vàn khó khăn vì không biết hành xử như thế nào cho “hợp pháp”.
Ví dụ việc quy định không thống nhất về biện pháp cầm cố và thế chấp các phương tiện giao thông vận tải như tàu bay, tàu biển, tàu thủy, thậm chí cả tàu cá.
3.1.3. Những khoảng trống của pháp luật về giao dịch bảo đảm.
Mặc dù với hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm có thể nói là đồ sộ nhưng vẫn xảy ra tình trạng nhiều nhưng vẫn thiếu. Điều này có nghĩa rằng, khi đi vào thực tiễn, thì các văn bản pháp luật đã bộc lộ nhiều thiếu sót, những
khoảng trống không được điều chỉnh. Ví dụ đối với biện pháp cầm cố thẻ tiết kiệm của ngân hàng khác để bảo đảm cho khoản vay: Việc cầm cố thẻ tiết kiệm do ngân hàng khác phát hành chưa bảo đảm cơ sở pháp lý. Thủ tục hiện nay là, Bên phát hành thẻ tiết kiệm xác nhận đồng ý phong toả tài khoản tiền gửi và xác nhận hỗ trợ Bên nhận cầm cố xử lý để thu hồi nợ. Tuy nhiên, việc này dường như mới chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ của Bên phát hành thẻ tiết kiệm, chứ chưa quy định rõ đây là nghĩa vụ của Bên phát hành thẻ tiết kiệm. Do vậy, nếu xảy ra trường hợp Bên cầm cố có nghĩa vụ thanh toán với một bên khác, đặc biệt nếu là nghĩa vụ thanh toán với chính ngân hàng phát hành thẻ tiết kiệm, thì ngân hàng phát hành thẻ tiết kiệm có thể ưu tiên khấu trừ số tiền gửi tiết kiệm để thanh toán nghĩa vụ của Bên cầm cố với ngân hàng trước các Bên nhận cầm cố khác. Nên Bên nhận cầm cố khó có cơ sở pháp lý để đòi hỏi quyền lợi.
3.2. Pháp luật thế chấp tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng – Vướng mắc, bất cập và giải pháp hoàn thiện
3.2.1. Chưa triệt để thừa nhận các nguyên tắc của vật quyền bảo đảm
Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa triệt để thừa nhận các nguyên tắc của vật quyền bảo đảm để bảo vệ quyền lợi của Bên nhận bảo đảm là được quyền theo đuổi tài sản bảo đảm cho dù tài sản đó đã được bán, chuyển nhượng cho chủ thể khác.
Theo thông lệ quốc tế về vật quyền bảo đảm thì Bên nhận bảo đảm có quyền trực tiếp đối với tài sản là vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ không phụ thuộc vào việc ai là chủ sở hữu của vật đó. Họ có quyền tuyệt đối, trực tiếp và ngay tức khắc đối với tài sản bảo đảm khi vật quyền bảo đảm đó được công khai hóa, tức là đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật. Việc này cho phép bên có vật quyền bảo đảm có quyền tuyệt
đối trong việc thu hồi tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ, ngay cả khi tài sản bảo đảm đó thuộc quyền chiếm giữ, kiểm soát và chi phối của các chủ thể khác.
Bộ luật Dân sự năm 2005 lại chưa quy định triệt để nguyên tắc này dẫn tới còn lúng túng trong quy định về quan hệ bảo đảm vật. Ví dụ như Điều 349 về “Quyền của Bên thế chấp tài sản” quy định Bên thế chấp tài sản có quyền: “Bên thế chấp tài sản có quyền bán, trao đổi, tặng, cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được Bên nhận thế chấp đồng ý” [26, Điều 349]. Như vậy, việc chuyển dịch tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh phải được sự đồng ý của Bên nhận thế chấp. Quy định nêu trên nhằm bảo vệ quyền lợi của Bên nhận thế chấp. Tuy nhiên, nếu Bên thế chấp cố tình thực hiện việc chuyển dịch quyền sở hữu tài sản thế chấp, thì Bên nhận thế chấp rất khó có thể có quyền truy đòi tài sản thế chấp do Bộ luật Dân sự thiếu cơ sở pháp lý để thực thi.
Những vụ việc Bên thế chấp bán, tẩu tán tài sản thế chấp tại Ngân hàng xảy ra ngày càng phổ biển. Ví dụ vào năm 2012, Công ty Chế biến thủy sản An Khang (Cần Thơ) đã dùng 2 kho hàng 300 tấn thực phẩm đông lạnh, (nhưng lại được kê lên 1.000 tấn) để thế chấp vay vốn cùng lúc tại 5 ngân hàng (Ngân hàng TMCP Đông Nam Á, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP An Bình, Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Việt Nam khu vực Cần Thơ - Hậu Giang). Giữa lúc 5 ngân hàng còn đang bàn tính phương án giải chấp 2 kho hàng để thu hồi khoản nợ 305 tỷ đồng, thì lãnh đạo Công ty Chế biến thủy sản An Khang đã mở kho cho nông dân vào lấy sạch hàng trừ nợ tiền mua cá [41].
Việc Bộ luật Dân sự chưa đề cao quyền theo đuổi, quyền truy đòi của chủ thể có quyền đối vật để giải quyết triệt để việc cho phép chủ sở hữu tài