Tương tự như việc xây dựng hệ thống thông tin, một số quy định đ
được ban hành đòi hỏi có thời gian để hướng dẫn, triển khai thực hiện và tích luỹ kinh nghiệm để hoàn thiện. Một số quy định chưa có chế tài xử phạt vi phạm sẽ khó có tính khả thi. Chẳng hạn, nhiệm vụ tổng hợp thông tin về nợ từ khối doanh nghiệp được trao cho Ngân hàng Nhà nước, song chừng nào chưa có biện pháp để xử phạt các doanh nghiệp không chịu cung cấp thông tin thì tính khả thi của quy định này chưa thể cao.
Một số nước, chẳng hạn như Ba Lan và Inđônêxia, đ áp dụng những biện pháp phạt nghiêm khắc dành cho các doanh nghiệp không tuân thủ kỷ luật báo cáo thông tin về nợ nước ngoài. [77]
Để có thể theo dõi, kiểm soát, thống kê đầy đủ về nợ nước ngoài đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ và nhất thể hoá trong quy trình thu thập số liệu, thống kê và báo cáo giữa Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hiện nay, các hoạt động tham khảo ý kiến và cùng bàn thảo giữa hai Bộ là thường xuyên, chủ yếu thông qua các cuộc họp chung, song chưa có một quy định chính thức nào về quy trình và thủ tục phối hợp cụ thể. Còn thiếu một cơ chế phối hợp giữa hai Bộ để tổng kết và rà soát một cách thường xuyên tình hình các khoản vay cũng như tổng dư nợ của cả nước, với đầy đủ chi tiết. [19]
Cảnh báo và quản lý rủi ro còn hạn chế
Cũng theo Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài (2005) Ngân hàng Nhà nước sẽ phải thiết lập được hệ thống cảnh báo sớm về rủi ro từ nợ của khu vực doanh nghiệp. Cho đến nay, quy định này mới chỉ là mong muốn của Chính phủ. Sự cần thiết phải đánh giá rủi ro từ việc vay nợ thương mại sẽ tăng lên nhanh chóng khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu với sự hiện diện của các tổ chức tín dụng quốc tế trên thị trường trong nước.
2.3.2.6.Tồn tại trong đánh giá tình hình nợ nước ngoài
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Chế Quản Lý Vay Và Trả Nợ Nước Ngoài Khu Vực Tư Nhân
- Quản Lý Nợ Nước Ngoài Đ! Góp Phần Quan Trọng Vào Phát Triển Kinh Tế Và Thu Hút Nguồn Vốn Oda
- Hệ Thống Tổ Chức Quản Lý Nợ Nước Ngoài Đ! Hoàn Thiện Và Từng Bước
- Hệ Thống Hóa Các Văn Bản Pháp Chế Về Quản Lý Nợ Nước Ngoài
- Tăng cường quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam - 19
- Tăng cường quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam - 20
Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.
Việc phân tích đánh giá tình hình nợ là một chức năng của quản lý nợ. Chức năng này đòi hỏi không chỉ thu thập đầy đủ số liệu mà còn cần đến
những phương pháp đánh giá có tính khoa học. Cho đến nay, các phân tích về nợ nước ngoài mà các cơ quan quản lý thực hiện chủ yếu dựa trên các công cụ là các chỉ số nợ khác nhau. Những phân tích như vậy mới chỉ phản ánh được tình trạng nợ ở dạng tĩnh, tại một thời điểm nhất định.
Hệ thống các chỉ số đánh giá tình trạng nợ nước ngoài của một nước chỉ cho phép đánh giá mức độ nợ nần trong những thời điểm nhất định, chưa đánh giá trong một khoảng thời gian. Chỉ số nợ trên giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là một chỉ số quan trọng đánh giá khả năng vay nợ của một nước chỉ
được tính toán dựa trên số dư nợ và giá trị xuất khẩu, không tính đến các biến khác có mối liên hệ chặt chẽ đến khả năng trả nợ thực tế và diễn biến của nợ như số dư nợ ban đầu, l i suất, tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu và nhập khẩu.
2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại
2.3.3.1.Yếu tố lịch sử
Về nguyên nhân những hạn chế của hệ thống quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam, cần phải thừa nhận rằng yếu tố lịch sử đóng vai trò rất lớn. Quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị trường chỉ mới được triển khai ở nước ta từ khoảng năm 1995, khi mà các dự án vay nợ ODA của các ngân hàng đa phương lớn bắt đầu giải ngân đáng kể. Kinh nghiệm và thực tiễn quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam chưa có nhiều, và hệ thống quản lý nợ nước ngoài còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện.
Thêm vào đó, về nhận thức vẫn còn tồn tại cách hiểu chưa đúng thực chất về ODA. Quan niệm ODA như các khoản viện trợ không phải hoàn lại nên không tính toán kỹ khả năng hoàn vốn, dẫn đến tình trạng l ng phí và tham nhũng. Quan niệm sai lầm này dẫn đến tình trạng tranh thủ nguồn vốn ODA mà không tính toán hiệu quả kinh tế, tính bền vững của dự án cũng như khả năng trả nợ.
2.3.3.2.Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ
Cho đến nay, vay nợ thương mại nước ngoài của Việt Nam cũng còn rất ít ỏi, do vậy kinh nghiệm quản lý và kiểm soát nợ thương mại còn khá hạn chế. Nhiều phương pháp phân tích, các chỉ số, các mô hình nợ, quy trình thu thập số liệu và báo cáo, hệ thống tổ chức v.,v., đều là mới. Quá trình học hỏi, tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm cũng như xây dựng thể chế và cơ chế quản lý đòi hỏi thời gian và kinh nghiệm. Một số biểu hiện kém thích ứng với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong cách thức quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam có thể nói là điều tất yếu.
2.3.3.3.Nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý
Phân tích về tồn tại trong khuôn khổ tổ chức quản lý nợ cho thấy việc phân công trách nhiệm quản lý còn nhiều trùng lặp và mâu thuẫn trong các văn bản pháp quy cũng như trong thực tiễn thi hành các quy định. Nguyên nhân của sự việc trên là do có nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý. Một nguyên nhân sâu xa hơn nằm trong phân chia quyền lực của các cơ quan Chính phủ, trong đó có những “tồn tại lịch sử” rất khó thay đổi nếu không có những quyết định chính trị mạnh mẽ ở cấp cao.
2.3.3.4.Thiếu hụt đội ngũ cán bộ chuyên môn
Sự thiếu hụt về đội ngũ cán bộ chuyên môn là một trong những nguyên nhân đáng kể dẫn đến những hạn chế của hệ thống quản lý nợ nước ngoài. Trước nay ngành giáo dục Việt Nam chưa đào tạo chuyên ngành quản lý nợ nước ngoài và các chuyên ngành tài chính quốc tế dù đ được tổ chức đào tạo nhưng trên thực tế chưa đủ cập nhật và chuyên sâu để đảm bảo đáp ứng nhu cầu về kiến thức và kỹ năng quản lý nợ nước ngoài. Đội ngũ cán bộ của các cơ quan quản lý nợ nước ngoài chủ yếu vừa làm vừa học. Các khoá đào tạo và tập huấn ngắn hạn chủ yếu do các dự án ODA cung cấp, không thể đủ để giúp hình thành một lực lượng chuyên gia đảm bảo thu thập thông tin, phân tích và
dự báo cũng như tổ chức các hoạt động nghiệp vụ một cách thích đáng. Xây dựng năng lực con người hiện nay đang là một định hướng lớn của Chính phủ trong công tác triển khai Chiến lược quản lý vay và trả nợ nước ngoài đến năm 2010 nhằm khắc phục điểm yếu về cán bộ chuyên môn.
2.3.3.5.Hệ thống và quy trình thẩm định các dự án đầu tư còn yếu kém
Quản lý nợ nước ngoài bền vững có liên quan rất chặt chẽ với việc thẩm định và đảm bảo hiệu quả đầu tư. Từ phương diện này, những điểm yếu của hệ thống và quy trình thẩm định và quản lý các dự án đầu tư, vốn đ là thực tiễn nhiều năm của nước ta, đ có tác động đến công tác quản lý nợ nước ngoài. Nguồn vốn vay nước ngoài trên thực tế cũng được phân bổ cho các chương trình, dự án ưu tiên như nguồn vốn ngân sách. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài trong dài hạn thì cái gốc vẫn là nâng cao hiệu quả đầu tư công cộng nói chung.
2.3.3.6.ứng dụng công nghệ thông tin còn yếu kém
Phần mềm quản lý nợ nước ngoài đang sử dụng tại Bộ TC và NHNN chưa được hỗ trợ đầy đủ các ứng dụng như chuẩn tiếng Việt Unicode, chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử. Việc ứng dụng công nghệ thông tin ở cấp địa phương còn yếu hơn nhiều, yếu cả về trang bị hệ thống máy tính, phần mềm quản lý và năng lực chuyên môn của cán bộ.
Kết luận
Chương 2 đ phản ánh bức tranh kinh tế vĩ mô của Việt Nam giai đoạn 1995-2005. Tình hình kinh tế khả quan của Việt Nam trong những năm cuối giai đọan đ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc tiếp tục huy động nguồn vốn từ nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ODA.
Đánh giá tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 1995-2005 cho thấy nợ công chiếm tỷ trọng chủ yếu, trong đó chủ yếu là ODA. Các doanh nghiệp tư nhân còn rất hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay nước ngoài. Các chỉ số đánh gía tình hình nợ nước ngoài cho thấy Việt Nam
đang kiểm soát tốt tình hình nợ nước ngoài quốc gia, tuy nhiên cần phải lưu ý vì trong những năm tới nhiều khoản vay sẽ đến hạn trả nợ.
Tuy đ đạt được những thành công nhất định, công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết. Về khía cạnh vĩ mô, nền tài chính vẫn thể hiện rõ xu hướng ưu tiên cho khu vực doanh nghiệp nhà nước. Khung thể chế và hệ thống quản lý nợ nước ngoài vẫn trong trạng thái chuyển đổi, tính chất quá độ và chưa đồng nhất vẫn còn thể hiện rõ. Việc phân công trách nhiệm quản lý nợ cũng còn nhiều điểm bất hợp lý, chồng chéo, sự phối hợp giữa các bộ, ngành chưa được quy định rõ ràng.
Trong những năm gần đây việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nợ nước ngoài đ có những tiến bộ vượt bậc, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng tốt nhu cầu trong quản lý nợ nước ngoài. Cơ sở dữ liệu vẫn trong quá trình hình thành, tính nhất quán trong cơ sở dữ liệu còn yếu. Quản lý rủi ro còn chưa
được quan tâm đúng mức.
Công tác đánh giá nợ nước ngoài đ được tiến hành hàng năm, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở đánh giá mang tính chất tĩnh, chưa phản ánh được tình hình quản lý nợ nước ngoài trong một giai đọan.
Chương 3. Giải pháp tăng cường quản lý nợ nước ngoài
ở Việt Nam
3.1. Mục tiêu và nguyên tắc quản lý nợ nước ngoài
3.1.1 Mục đích quản lý nợ nước ngoài
Mục đích của quản lý nợ nước ngoài trong thời gian tới được xác định là: (1) Đáp ứng được các yêu cầu về huy động vốn của nền kinh tế với chi phí thấp nhất cho đầu tư phát triển đất nước và cơ cấu lại nền kinh tế; (2) Đảm bảo quản lý, phân bổ và sử dụng vốn có hiệu quả, giảm thiểu rủi ro và áp lực đối với các nguồn lực quốc gia (ngân sách nhà nước, quỹ dự trữ ngoại hối của quốc gia), đảm bảo an toàn nợ và an ninh tài chính quốc gia và (3) Tạo điều kiện tăng cường hội nhập kinh tế. [12]
3.1.2 Nguyên tắc quản lý nợ nước ngoài
Trên cơ sở xác định rõ mục đích quản lý nợ, các nguyên tắc quản lý nợ nước ngoài cũng được xác định rõ. Đó là:
1. Chính phủ thống nhất quản lý toàn diện nợ nước ngoài của quốc gia, từ việc huy động, tiếp nhận, phân bổ sử dụng, quản lý, theo dõi và giám sát bằng các công cụ: (a) Chiến lược nợ dài hạn, Chương trình quản lý nợ trung hạn và Kế hoạch hàng năm về vay, trả nợ nước ngoài của quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; (b) Các chính sách, chế độ phù hợp và phân công trách nhiệm quản lý giữa các cơ quan quản lý nhà nước theo quy định tại Quy chế Quản lý Vay và Trả nợ nước ngoài.
2. Hiệu quả của chương trình, dự án sử dụng vốn vay là tiêu chí quan trọng hàng đầu trong việc quyết định vay vốn nước ngoài.
3. Đảm bảo cân đối giữa vay và khả năng trả nợ, cân đối ngoại tệ và các cân đối vĩ mô khác của nền kinh tế về dài hạn.
4. Các cơ quan chính quyền, đoàn thể, các cơ quan quản lý hành chính các cấp và các tổ chức chính trị, x hội, nghề nghiệp không được phép trực tiếp vay nước ngoài, trừ trường hợp đặc biệt được pháp luật hiện hành hoặc Thủ tướng Chính phủ cho phép.
5. Tất cả các khoản vay nước ngoài theo quy định tại khoản 2 Điều 2 của Quy chế này phải được đăng ký chính thức với cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ sau khi ký kết theo Điều 6 của Quy chế này.
6. Trường hợp dự thảo thoả thuận vay hoặc bảo l nh vay nước ngoài có những nội dung trái hoặc chưa được quy định trong những văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hoặc có những cam kết về thể chế, chính sách vượt thẩm quyền thì cơ quan chủ trì đàm phán thoả thuận phải lấy ý kiến các cơ quan liên quan và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
7. Việc ký kết các thoả thuận vay nước ngoài của Chính phủ thực hiện theo quy định của pháp luật về ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế. Trường hợp thoả thuận giữa cấp có thẩm quyền của Việt Nam với người cho vay có quy định khác thì thực hiện theo thoả thuận với người cho vay. [12]
3.2. Định hướng vay và trả nợ của Việt Nam trong thời gian tới
Trên cơ sở thực tế quản lý nợ nước ngoài trong thời gian qua, các mục tiêu và nguyên tắc quản lý nợ đ được xác định, các định hướng công tác chính trong Chương trình hành động thực hiện “Chiến lược quốc gia về vay và trả nợ nước ngoài đến năm 2010” đ được đưa ra, đó là: (1) Hoạch định chính sách về quản lý vay và trả nợ nước ngoài; (2) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và thể chế trong quản lý nợ nước ngoài; và (3) Thu thập, tổng hợp, báo cáo, chia sẻ, công bố thông tin và đào tạo cán bộ về quản lý nợ nước ngoài. [18]
Một chiến lược quốc gia về vay và trả nợ nước ngoài, trong đó xác định
được mức nợ bền vững là một công cụ quan trọng trong quản lý nợ. Bên cạnh
đó việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và thể chế trong quản lý nợ nước ngoài cũng rất cấp thiết để khắc phục tình trạng chồng chéo trong các quy định về
quản lý nợ nước ngoài hiện tại. Đào tạo để có được đội ngũ cán bộ có chuyên môn trong lĩnh vực quản lý nợ nước ngoài cũng rất cần thiết để năng cao hiệu quả quản lý nợ.
Mục tiêu tổng quát của định hướng quản lý nợ nước ngoài là nhằm xác
định phương hướng chủ đạo trong công tác thu hút và sử dụng vốn vay nước ngoài nhằm bổ sung có hiệu quả hơn nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế – x hội, đồng thời tiếp thu chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong thời kỳ từ nay đến 2010, phục vụ tốt cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo đảm khả năng trả nợ và tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập khu vực và toàn cầu. [13]
Bên cạnh mục tiêu tổng quát, định hướng cũng đưa ra mục tiêu cụ thể trong thu hút và sử dụng vốn vay nước ngoài. Mục tiêu của huy động vốn là: huy động vốn vay nước ngoài phải nhằm bổ sung, khai thác và phát huy các tiềm lực có sẵn trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế. Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế – x hội của cả nước và từng ngành, địa phương, khả năng cân
đối ngoại tệ và trả nợ của nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Mục tiêu cụ thể của việc sử dụng vốn được tập trung vào hiệu quả của việc sử dụng vốn. Định hướng đ chỉ ra rằng, hiệu quả của các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài phải là tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu trong việc quyết
định vay vốn nước ngoài. Việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý nợ nước ngoài, hoàn thiện bộ máy quản lý nợ nước ngoài phù hợp với từng thời kỳ và tăng cường phối hợp và gắn kết chặt chẽ giữa công tác quản lý nợ nước ngoài với việc xây dựng các cân đối và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô là những điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng quản lý và hiệu quả sử dụng vốn, góp phần hướng dẫn và khuyến khích sử dụng vốn đúng