Chương 1. Khái quát về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
1.1. Khái niệm về khủng hoảng tài chính
Trong lịch sử tài chính tiền tệ thế giới, thuật ngữ “Khủng hoảng tài chính” đã không còn xa lạ. Có rất nhiều các nghiên cứu, các học thuyết được đưa ra nhằm tìm hiểu quá trình hình thành của một cuộc khủng hoảng tài chính cũng như cách thức dự báo và ngăn chặn nó. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một sự thống nhất hoàn toàn giữa những nghiên cứu, học thuyết đó về khái niệm của một cuộc khủng hoảng tài chính.
Theo một nghiên cứu của Quỹ tiền tệ thế giới IMF, khái niệm về khủng hoảng tài chính không được đưa ra cụ thể, mà được hiểu thông qua các khái niệm từng loại khủng hoảng tài chính. Theo nghiên cứu này thì khủng hoảng tài chính rất đa dạng. Một cuộc khủng hoảng tiền tệ có thể nổ ra khi hoạt động đầu cơ tiền tệ theo tỷ giá dẫn đến sự giảm giá (hoặc giảm giá đột ngột) đồng tiền đó, hoặc trường hợp buộc các cơ quan có trách nhiệm phải bảo vệ đồng tiền của mình bằng cách chi ra một khối lượng lớn dự trữ ngoại tệ để nâng cao lãi suất. Khủng hoảng ngân hàng là tình trạng ngân hàng thực tế hoặc có khả năng đổ vỡ hay các vụ phá sản buộc các ngân hàng phải hoãn các khoản thanh toán thuộc trách nhiệm của mình hoặc tình trạng buộc chính phủ phải can thiệp bằng cách trợ giúp những khoản tài chính lớn. Cuộc khủng hoảng ngân hàng tác động trên diện rộng, tới nhiều bộ phận của hệ thống kinh tế. Khủng hoảng hệ thống tài chính là những rối loạn có thể tới mức nghiêm trọng của thị trường tài chính. Những rối loạn này, do làm suy yếu những chức năng của thị trường tài chính, có thể tác động sâu rộng tới toàn bộ nền kinh tế. Khủng hoảng hệ thống tài chính thường đi liền với khủng hoảng tiền tệ, nhưng một cuộc khủng hoảng tiền tệ thì không nhất thiết gắn với những rối loạn nghiêm trọng trong hệ thống thanh toán quốc gia, và do đó có thể không đạt tới mức độ trở thành khủng hoảng hệ thống
tài chính. Cuối cùng, khủng hoảng nợ nước ngoài là tình trạng một quốc gia không thể thực hiện nghĩa vụ với các khoản nợ nước ngoài của mình, cả nợ chính phủ lẫn nợ tư nhân.
Có ý kiến cho rằng, khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính có thể là: Các ngân hàng thương mại không hoàn trả được các khoản tiền gửi; các khách hàng vay vốn không thể hoàn trả các khoản vay cho ngân hàng; chính phủ phải từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Tựu chung lại, khủng hoảng tài chính là sự rối loạn trầm trọng trong thị trường tài chính được đặc trưng bởi sự sụt giảm mạnh mẽ về giá tài sản, mất khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ, sự phá sản hoặc lâm vào nguy cơ phá sản của các công ty tài chính và phi tài chính, kéo theo suy thoái kinh tế nặng nề.
Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay có phạm vi trên toàn cầu chính vì vậy được gọi là “khủng hoảng tài chính toàn cầu”. Cuộc khủng hoảng này thể hiện tình trạng bất ổn định tài chính như mất giá tiền tệ, sụt giá chứng khoán diễn ra đồng thời nhiều nơi trên thế giới từ khoảng tháng 8 năm 2008. Cuộc khủng hoảng này là sự phát triển và lan toả của cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007 và nó tiếp tục diễn ra cho đến nay. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu này đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các nước, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nước khác. (Nguồn: Bách khoa toàn thư mở, năm 2008)
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007 là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm
Có thể bạn quan tâm!
- Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới hoạt động ngoại thương Việt Nam và Mỹ - 1
- Diễn Biến Và Đặc Điểm Của Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Toàn Cầu
- Tác Động Của Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Toàn Cầu .
- Một Số Giải Pháp Của Các Nước Nhằm Khắc Phục Cuộc Khủng Hoảng .
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
2007 cho đến tận nay. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. (Nguồn: Bách khoa toàn thư mở, năm 2007).
1.2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
1.2.1. Khủng hoảng tài chính Mỹ
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ chính là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Và nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ lại bắt đầu từ thị trường nhà đất Mỹ. Khủng hoảng đã xảy ra khi thị trường nhà đất Mỹ bị đóng băng từ khoảng tháng 7/2007 sau khi lãi suất cho vay thế chấp bị điều chỉnh tăng hàng loạt làm hàng triệu người vay tiền mua nhà đầu cơ không thể trả nợ. Thị trường chứng khoán phái sinh từ nợ vay thế chấp dưới chuẩn mất khả năng thanh khoản gây ra khủng hoảng tín dụng và thiệt hại to lớn cho các ngân hàng lớn không chỉ ở bên trong nước Mỹ. Nhiều nhà kinh tế cho rằng cuộc khủng hoảng hiện tại có thể sẽ là tồi tệ nhất từ khủng hoảng 1929-1933.
Có 4 nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ:
a, Đạo luật Ngân hàng ở Mỹ
Vào thập niên 1920, Luật Ngân hàng ở Mỹ còn lỏng lẻo nên các ngân hàng thương mại dùng tiền ký gửi đầu tư mạo hiểm vào những lĩnh vực kinh doanh có mức lợi nhuận cao nhưng đầy rủi ro. đầu tư bừa bãi để lấy phần trăm hoa hồng, cộng với chính sách tiền tệ phóng túng đã sinh ra tình trạng siêu lạm phát, dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mỹ năm 1929, tiếp theo là một thời kỳ khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Năm 1932, tổng thống Franklin Roosevelt nhậm chức đã cùng Quốc hội Mỹ cho ra đời Đạo luật Ngân hàng ( Glass-Steagal Act) năm 1933, chủ yếu để cứu nền kinh tế Mỹ nằm trong chương trình 100 ngày đầu của Chính
phủ Roosevelt. Đạo luật này phân biệt khắt khe giữa hoạt động của ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư.
Theo quy định, Ngân hàng thương mại chỉ được hoạt động trong lĩnh vực cho vay những hoạt động kinh doanh truyền thống, ít rủi ro nhất và có đầy đủ thế chấp cụ thể một cách tương xứng. Ngân hàng thương mại trả lãi suất ký gửi là X% thì cho vay lại chỉ ở mức X + 2(hoặc 3%) mà thôi để đảm bảo tính an toàn và giữ vững niềm tin của người dân để gửi tiết kiệm. Còn hoạt động của ngân hàng đầu tư là những hoạt động kinh doanh với độ rủi ro cao, nên các nhà đầu tư vào các loại quỹ hoặc ngân hàng đầu tư phải được biết vậy và chấp nhận rủi ro. Sự tách biệt giữa hoạt động ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư là để làm rạch ròi mức độ rủi ro, tránh sự mập mờ dễ gây ra sự ngộ nhận cho người dân khi gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Sự tách biệt này cũng là để minh bạch hoá các hoạt động ngân hàng vì đó là nền tảng của cả một hệ thống ngân hàng ổn định, tạo nên sức mạnh cho hệ thống tài chính và kinh tế phát triển bền vững. Đạo luật Glass-Steagal đã giúp cho kinh tế và xã hội Mỹ phát triển mạnh trong suốt 50 năm và trở thành một mô hình tài chính ngân hàng mẫu mực cho cả thế giới.
Đến đầu những năm 1980, khi Rowald Reagan nhậm chức tổng thống, chính phủ Mỹ chủ trương phát triển kinh tế thị trường tối đa, đồng thời cho phép các ngân hàng nhận tiền gửi tiết kiệm mở rộng các hoạt động cho vay để nhiều người đầu tư vào thị trường bất động sản. Chính sách này vài năm sau đã dẫn đến khủng hoảng ngân hàng đầu tiên, bắt buộc chính phủ Mỹ phải can thiệp, tổn hao công quỹ đến hơn 300tỉ USD mới giải quyết được tạm ổn. (Nguồn: Hải Ninh, Khủng hoảng tài chính Mỹ: nguyên nhân, tác động, chiều hướng và giải pháp, báo Kinh tế và chính trị thế giới, số 9(149)2008, trang 69)
Vào những năm 1990, chính quyền của tổng thống Bill Clinton đã thành công trong các chính sách kinh tế, trả được tất cả các công nợ lớn do chính quyền Reagan để lại, bắt đầu một thời kỳ phát triển dài nhất trong lịch sử nước Mỹ. Nhưng chính sự thành công này đã nảy sinh ra mầm mống cho khủng hoảng kinh tế của nước Mỹ hôm nay. Say men chiến thắng và cũng đầy lòng tham, các đại gia của Mỹ và cả những nhà hoạch định chính sách đã lãng quên những qui tắc cơ bản của ngành ngân hàng và nhiệm vụ quản lý rủi ro tài chính. Các đại gia tài chính-ngân hàng đã tiến hành những chiến dịch vận động hành lang để ngân hàng được phép tham gia vào các lĩnh vực đầu tư rủi ro mà trước đây bị cấm bởi Đạo luật Glass-Steagal. Số tiền lobby do các độc quyền tài chính ngân hàng chi trong năm 1998 lên đến 200 triệu USD (Nguồn: Hải Ninh, Khủng hoảng tài chính Mỹ: nguyên nhân, tác động, chiều hướng và giải pháp, báo Kinh tế và chính trị thế giới, số 9(149)2008, trang 70). Kết quả là năm 1999, tổng thống Clinton trước khi mãn nhiệm đã ký đạo luật Gramm-Leach-Bliley chính thức khai tử Glass-Steagal.
Sang năm 2000, cựu bộ trưởng tài chính trong chính quyền Clinton là Robert Rubin chuyển sang làm chủ tịch tập đoàn Citi Group- một trong những tập đoàn đã chủ động chiến dịch lobby cho đạo luật ngân hàng mới. Các ngân hàng Mỹ từ đó được tài trợ các loại chứng khoán, kể cả các loại tài sản (phần lớn là bất động sản) đã được chứng khoán hoá qua các thủ thuật “bốc giá”.
Chính sách tín dụng thoải mái với lãi suất cực kỳ thấp và điều kiện thế chấp hết sức lỏng lẻo dưới thời tổng thống George Bush đã tạo ra sự tăng trưởng ảo từ những đầu tư ồ ạt, dẫn đến sự phát triển nóng trong lĩnh vực nhà đất để rồi hệ thống tài chính-ngân hàng Mỹ không cõng được gánh nặng do chính mình tạo ra, khiến chính quyền Mỹ phải ra tay cấp cứu.
b, Các công cụ cho vay dưới chuẩn và sự đổ vỡ bong bóng thị trường nhà đất
b1, Các công cụ cho vay dưới chuẩn, ARM, MBS và CDO
Đáp lại nhu cầu của nhà đầu tư, hoạt động cho vay thế chấp đặc biệt là cho vay dưới chuẩn đã nở rộ. Cho vay dưới chuẩn (subprime) là việc các ngân hàng chấp nhận cho vay cả những khách hàng không đủ tiêu chuẩn vay vốn với mức lãi suất hiện hành trên thị trường. Việc xác định dưới chuẩn được dựa trên nhiều yếu tố trong đó có mức thu nhập, lýlịch tín dụng, công việc hiện tại của người đi vay.
Sự tranh giành thu hút khách hàng cũng khuyến khích các ngân hàng phát minh những công cụ cho vay thế chấp mới bên cạnh các phương thức truyền thồng mà nổi bật nhất là vay thế chấp lãi suất thả nổi ARM - adjustable rate mortgage, theo đó ngân hàng cho vay thế chấp với mức lãi suất được điều chỉnh theo từng giai đoạn đã thoả thuận căn cứ vào hệ thống các chỉ số liên quan bao gồm trái phiếu thay đổi lãi suất một năm một lần CMT, chỉ số phi phí COFI- cost of funds index, và lãi suất LIBOR. Cùng với ARM, hai công cụ chứng khoán phái sinh quan trọng khác gắn với thị trường bất động sản là chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp MBS-mortgage- backed securities và trái phiếu có thế chấp CDO-collateralized debt obligations là những con virus đã làm sự sụp đổ của thị trường bất động sản lây lan nhanh chóng sang thị trường tín dụng, thị trường tài chính và vượt ra ngoài biên giới nước Mỹ.
CDO là trái phiếu được các tổ chức tài chính phát hành trên cơ sở tài sản đang nắm giữ, có thể là trái phiếu (bond) hay các khoản nợ cho vay mua nhà thế chấp (mortgage). Giá trị của CDO được tính toán dựa trên danh mục tài sản có lợi tức ổn định ( fixed-income assets) được các tổ chức định mức tín nhiệm xếp hạng thành chứng khoán loại 1 (AAA), chứng khoán loại 2
(AA-BB) và vốn cổ phần (không xếp hạng). Việc xếp hạng sẽ tác động tới lợi tức thu được của tài sản và qua đó tác động đến giá của chứng khoán. Đây là loại chứng khoán rất phức tạp cần các công cụ và mô hình tính toán phức tạp để xác định giá trị và đánh giá rủi ro.
MBS cũng là chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản nợ mua nhà thế chấp nhưng giá trị của MBS được xác định dựa trên khoản vay gốc và lãi suất thu được của một “rổ” các khoản cho vay thế chấp. Về cơ bản, cả hai công cụ đều được phát hành trên cơ sở nợ mua nhà thế chấp nhưng điểm khác biệt của MBS so với CDO là người vay thế chấp có thể trả nhiều hơn khoản trả góp hàng tháng đã cam kết hoặc có thể trả toàn bộ khoản vay trước thời hạn và khi đó giá trị của khoản vay gốc sẽ thay đổi, dẫn tới thay đổi “mệnh giá” của MBS so với khi được phát hành.
b2, Đổ vỡ thị trường bất động sản
Sau cơn chấn động của thị trường chứng khoán Mỹ những năm 2000- 2001 bắt nguồn từ sự đổ vỡ của các công ty dot-com và công ty công nghệ cao, rất nhiều người đã tháo chạy khỏi thị trường chứng khoán và đầu tư sang lĩnh vực bất động sản với niềm tin đây là lĩnh vực đầu tư an toàn hơn nhiều. Vào thời điểm đó, bắt đầu từ năm 2001, để thúc đẩy nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào giữa năm 2000, lãi suất cơ bản của FED là trên 6%, nhưng sau đó liên tục được cắt giảm, đến giữa năm 2003 chỉ còn 1%. (Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, Trung tâm thông tin tư liệu (2-2009), Khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu và việc chủ động ứng phó của Việt Nam, trang 9)
Về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ hồi đầu những năm 2000 là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các
nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai tập đoàn được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai tập đoàn này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được đảm bảo bằng các khoản vay thế chấp MBS, rồi bán lại cho các nhà đầu tư phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Vì dễ vay nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng lên 54% chỉ trong vòng 4 năm từ 2001 đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể là giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ rằng nếu cần sẽ bán để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó một bong bóng đã hình thành trên thị trường bất động sản. Cho đến giữa năm 2006, FED tăng lãi suất. Tính đến tháng 3/207, tổng qui mô cho vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ đã lên tới 1,3 nghìn tỷ đô la. Làn sóng sở hữu nhà tăng cao tại Mỹ từ 64% năm 1994 (tỷ lệ này gần như được duy trì từ năm 1980) lên 69,2% năm 2004. Bước sang năm 2007, số lượng nhà tồn kho của ngành xây dựng Mỹ đã ở mức khá cao do sự bùng nổ xây dựng nhà trong giai đoạn trước đó. Ngoài ra, tỷ lệ các vụ tịch thu tài sản thế chấp liên tục tăng lên, đặc biệt là đối với vay ARM đã dẫn tới sự ế ẩm của thị trường nhà đất gây áp lực giảm giá nhà. Theo tính toán của chỉ số giá địa ốc S&P/Case-Shiller, đến tháng 11/2007 giá nhà tại Mỹ đã giảm trung bình 8% so với năm 2006.(Nguồn: Nguyễn Tri Bảo, Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn tại Mỹ, báo Kinh tế và chính trị thế giới, số 6(146)2008, trang 72)
Lúc này kỳ vọng của người dân Mỹ về việc trả hết tiền nhà trong thời gian ngắn đã tan biến. Ngược lại, họ phải đối mặt với những điều khoản bất