Tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững và hiệu quả xã hội (spi) của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam - 2


Chương 4: Khuyến nghị về cấu trúc vốn nhằm nâng cao mức độ bền vững và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC VỐN, MỨC ĐỘ BỀN VỮNG VÀ HIỆU QUẢ XÃ HỘI CỦA TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ.

1.1 Tổng quan về tổ chức tài chính vi mô

1.1.1 Khái niệm và vai trò của tổ chức tài chính vi mô

1.1.1.1 Khái niệm tổ chức tài chính vi mô

Các tổ chức tài chính vi mô được định nghĩa là các tổ chức được thành lập với mục đích cung cấp các dịch vụ tài chính và phi tài chính cho đối tượng có thu nhập thấp và yếu thế trong xã hội nhằm giúp họ thoát nghèo một cách bền vững.

Trong luận án này dữ liệu về các tổ chức TCVM được cấp phép (được trình bày dưới tên gọi MFIs được cấp phép) và các quỹ xã hội hoạt động tài chính vi mô, chương trình tài chính vi mô chuyên trách nhưng chưa đăng kí thành lập tổ chức tài chính vi mô (được trình bày dưới tên gọi MFIs có đăng kí) sẽ được tập trung phân tích.

1.1.1.2 Vai trò của tổ chức tài chính vi mô

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 41 trang tài liệu này.

Về khía cạnh kinh tế: Các tổ chức tài chính vi mô giúp khách hàng có thu nhập thấp trong xã hội có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ tài chính cơ bản như tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm. Qua đó, những người yếu thế có thêm cơ hội để tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, gia tăng thu nhập và giảm đói nghèo.

Về khía cạnh xã hội: Bên cạnh các dịch vụ tài chính, các tổ chức tài chính vi mô còn cung cấp các dịch vụ phi tài chính nhằm nâng cao sức khỏe, ý thức, cũng như kĩ năng của người có thu nhập thấp nhằm giúp khách hàng tự tin hòa nhập tốt hơn vào các hoạt động kinh tế và xã hội trong cộng đồng.

Tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững và hiệu quả xã hội (spi) của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam - 2

1.1.2 Sản phẩm, dịch vụ của tổ chức tài chính vi mô

Căn cứ vào vòng đời phát triển của một con người, ngân hàng thế giới đã nhận diện các nhu cầu tài chính cơ bản của con người gồm: nhu cầu có vốn để kinh doanh; nhu cầu tích lũy tiền để đầu tư cho các nhu cầu trong tương lai như giáo dục, cưới hỏi, thai sản; nhu cầu bảo hiểm cho nhân mạng và tài sản; nhu cầu nhận và chuyển tiền cho người thân; nhu cầu đầu tư, tích lũy khi về già và nhu cầu chi trả viện phí khi ốm đau hoặc các trường hợp khẩn cấp khác. Chính vì vậy, các sản phẩm được cung cấp bởi tổ chức tài chính vi mô cần phải đa dạng để đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu cơ bản của người dân nói chung và người nghèo nói riêng. Cụ thể, các sản phẩm tín dụng vi mô, tiết kiệm, bảo hiểm, thanh toán dần được hình thành. Bên cạnh đó, các dịch vụ hỗ trợ hay dịch vụ xã hội giúp cải thiện điều kiện sống của người nghèo cũng được các tổ chức tài chính vi mô cung cấp song hành với dịch vụ tài chính nhằm mang đến sự phát triển bền vững cho khách hàng.


1.2 Cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô

1.2.1 Khái niệm về cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô

Cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô được định nghĩa là sự kết hợp linh hoạt giữa các nguồn vốn tài trợ với các nguồn vốn thương mại (vốn huy động từ tiền gửi, vốn chủ sở hữu, vốn vay) để giúp đảm bảo nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động của tổ chức tài chính vi mô.

1.2.2 Biến đại diện cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô

Để đo lường cấu trúc vốn của TCTCVM tại Việt Nam, nhiều hệ số khác nhau căn cứ vào nguồn hình thành nên vốn từ nợ và vốn chủ sở hữu của TCTCVM (vốn huy động từ tiền gửi, vốn đi vay, nợ khác và vốn chủ sở hữu) sẽ được sử dụng.

1.3 Mức độ bền vững của tổ chức tài chính vi mô

1.3.1 Khái niệm

Bền vững tài chính được định nghĩa là khả năng của tổ chức trong việc tạo ra doanh thu từ việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng nghèo để trang trải cho toàn bộ chi phí đầu vào cũng như tích lũy cho quá trình phát triển trong dài hạn của tổ chức.

1.3.2 Biến đại diện mức đọ bền vững của tổ chức tài chính vi mô

Đánh giá về mức độ bền vững tài chính của tổ chức tài chính vi mô, ba chỉ tiêu thường được các nhà nghiên cứu sử dụng để phân tích mức độ bền vững của một tổ chức tài chính vi mô bao gồm tự vững hoạt động (OSS), tự vững tài chính (FSS) và hệ số phụ thuộc trợ cấp (SDI) (Marakkath, 2014).

1.4 Hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô

1.4.1 Khái niệm

Khái niệm hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô có thể hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp; trong đó, theo nghĩa hẹp hiệu quả xã hội của MFIs là những kết quả, lợi ích mà tổ chức tài chính vi mô mang lại cho toàn thể các bên liên quan, cho cộng đồng và cho xã hội; còn theo nghĩa rộng hiệu quả xã hội thể hiện qua việc tổ chức thiết lập được một tổng thể quy trình từ hoạch định, lên ý tưởng chính sách, thiết lập quy trình hoạt động đến kết quả, tác động mà tổ chức tài chính vi mô mang lại cho tất cả các bên trong các mối quan hệ xã hội của mình.

1.4.2 Biến đại diện hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô

Tương ứng với quan điểm về định nghĩa hiệu quả xã hội theo nghĩa hẹp và rộng, các nghiên cứu về hiệu quả xã hội của MFIs cũng cho thấy có hai phương pháp thường được sử dụng trong đo lường hiệu quả xã hội của MFIs. Trong đó, theo nghĩa hẹp các tác giả thường


đo lường hiệu quả xã hội dựa trên những kết quả ghi nhận từ các báo cáo. Theo nghĩa rộng, hiệu quả xã hội lại được đo lường dựa trên việc khảo sát, đánh giá từ giác độ quy trình quản lý và thực thi.

1.5 Tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững và hiệu quả xã hội

1.5.1 Lý thuyết M&M

1.5.1.1 Nội dung lý thuyết M&M

Lý thuyết về cấu trúc vốn hiện đại được bắt nguồn từ lý thuyết của Modigliani và Miller (1958). Với các giả định về một thị trường vốn hoàn hảo như không có thuế, không có chi phí giao dịch, không có hiện tượng thông tin bất cân xứng và cả doanh nghiệp lẫn nhà đầu tư đều là người chấp nhận giá (Levati và cộng sự, 2012), lý thuyết M&M nhận định giá trị của doanh nghiệp không phụ thuộc vào nguồn vốn dùng để tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp đó.

1.5.1.2 Các nghiên cứu về lý thuyết

Ủng hộ cho lý thuyết M&M, Stiglitz (1969) đã chứng minh lý thuyết về cấu trúc vốn của Modigliani và Miller không chỉ đúng với các giả định về thị trường vốn hoàn hảo, mà còn xảy ra tại thị trường nơi mà hoạt động vay vốn cá nhân bị hạn chế hoặc có dấu hiệu của phá sản.

Đưa ra ý kiến phản bác đầu tiên cho lý thuyết M&M là Durand (1959) khi tác giả cho rằng hai giả thuyết liên quan đến thay thế hoàn hảo và cơ hội kinh doanh chênh lệch giá là không thể xảy ra trong thị trường hoàn hảo. Bên cạnh đó, dựa trên những điểm không hoàn hảo của thị trường vốn, Arzac và Glosten (2005), Dann (1981), Masulis (1983) và Graham và Harvey (2001) cũng phản bác lại lý thuyết M&M khi chỉ ra rằng tồn tại mối quan hệ mật thiết giữa giá trị doanh nghiệp và đòn bẩy tài chính.

1.5.2 Lý thuyết đánh đổi

1.5.2.1 Nội dung lý thuyết

Được phát triển bởi Kraus và Litzenberger (1973) lý thuyết đánh đổi cho rằng có sự đánh đổi giữa lợi ích và chi phí của việc sử dụng nợ; do đó các nhà quản lý cần cân nhắc để tìm ra một tỉ lệ nợ tối ưu (Graham & Harvey, 2001) nhằm tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp (Abor, 2005).

1.5.2.2 Các nghiên cứu về lý thuyết

Ủng hộ cho quan điểm về lý thuyết đánh đổi là các nghiên cứu của Tong và Green (2005), Graham và Harvey (2001), Flannery và Rangan (2006), Marsh (1982), Opler và Titman (1994) và Taggart (1977), Hackbarth và cộng sự (2007).


Trái lại, Baker và Wurgler (2002, p.3) đưa ra ý kiến phản bác lý thuyết đánh đổi và kết luận “cấu trúc vốn là kết quả của sự nỗ lực theo thời gian trên thị trường chứng khoán”. Bên cạnh đó, Fama và French (1998), Dawar (2014), Daskalakis và Psillaki (2005) và Salim và Yadav (2012) cũng có những ý kiến phản bác lý thuyết này.

1.5.3 Lý thuyết trật tự phân hạng

1.5.3.1 Nội dung lý thuyết

Trái ngược với lý thuyết đánh đổi, lý thuyết trật tự phân hạng được giới thiệu bởi Myers và Majluf (1984) phủ nhận sự tồn tại của một tỉ lệ nợ mục tiêu. Tuy nhiên, lý thuyết này cũng đồng thuận về việc xây dựng một thứ tự ưu tiên lựa chọn cho các nguồn vốn sử dụng bởi doanh nghiệp.

1.5.3.2 Các nghiên cứu về lý thuyết

Ủng hộ cho quan điểm của lý thuyết này là Remolona (1990), Baskin (1989), De Jong và cộng sự (2011).

Cũng thực hiện nghiên cứu kiểm tra mức độ phù hợp của lý thuyết trật tự phân hạng, tuy nhiên Lery và Roberts (2010) nhận thấy lý thuyết này chỉ giải thích được khoảng 20% quyết định tài chính của các doanh nghiệp, thấp hơn rất nhiều so với kết quả được đưa ra bởi De Jong và cộng sự (2011). Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cũng cho thấy mức độ giải thích của lý thuyết trật tự phân hạng đối với cấu trúc vốn của tổ chức không cao (Seifert và Gonenc, 2008; Helwege và Liang, 1996; Frank và Goyal, 2003; Graham và Harvey, 2001).

1.5.4. Đặc tính cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô

Sự khác biệt trong sứ mệnh và cách thức hoạt động đã khiến cho cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô và doanh nghiệp có những sự khác biệt rõ rệt.

Thứ nhất, các tổ chức tài chính vi mô thường được nhận các nguồn vốn viện trợ, các nguồn vốn ưu đãi hơn so với các doanh nghiệp.

Thứ hai, cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô luôn luôn biến động dựa trên sự thay đổi trong nhu cầu của khách hàng.

Thứ ba, các tổ chức tài chính vi mô phải tuân thủ các quy định về an toàn vốn, trong khi các doanh nghiệp thì không.

1.5.5 Cơ chế tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững và hiệu quả xã hội

Thông qua phân tích sự khác biệt trong đặc điểm cấu trúc vốn, và đặc biệt là sự tác động của các giả định đến cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô, tác giả nhận thấy chi phí phá sản và chi phí đại diện ít có tác động đến cấu trúc vốn của tổ chức tài chính vi mô. Trái lại thuế và đặc biệt là chi phí giao dịch trong các giả định của lý thuyết cấu trúc vốn cơ bản có tác động nhất định đến mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và mức độ b ền


vững, hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô. Chính vì vậy, cơ chế tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững và hiệu quả xã hội được xây dựng như sau:

Biểu đồ 1.3 Cơ chế tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững và hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô


Chi phí tài chính

Mức độ bền vững

Cấu trúc vốn

Thuế, chi phí giao dịch

Áp lực cân bằng giữa mục tiêu tài chính và xã hội

Hiệu quả xã hội


Nguồn: Tác giả tự phát triển

Việc lựa chọn các nguồn vốn khác nhau sẽ quyết định chi phí sử dụng vốn mà mỗi tổ chức tài chính vi mô phải chi trả để duy trì hoạt động của mình. Chi phí này sẽ tác động trực tiếp tới chi phí tài chính, và sau đó là mức độ bền vững của tổ chức. Bên cạnh đó, tổ chức tài chính vi mô vẫn luôn được biết đến là tổ chức hoạt động với mục tiêu giúp xóa đói, giảm nghèo; do đó, việc sử dụng các nguồn vốn với chi phí khác nhau cũng vô hình chung tạo một áp lực nhất định đối với nhà quản lý, điều hành tổ chức khi phải vừa đảm bảo cân bằng giữa mục tiêu tài chính và mục tiêu xã hội. Chính vì vậy, hiệu quả xã hội của tổ chức tài chính vi mô cũng sẽ bị tác động.


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CẤU TRÚC VỐN, MỨC ĐỘ BỀN VỮNG VÀ HIỆU QUẢ XÃ HỘI CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH

VI MÔ TẠI VIỆT NAM

2.1. Quá trình hình thành của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam

2.2. Môi trường pháp lý cho hoạt động tài chính vi mô tại Việt Nam

2.3. Các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam

Tổ chức cung cấp tài chính vi mô tại Việt Nam khá đa dạng. Tuy nhiên, theo như phần định nghĩa trong khái niệm về tổ chức tài chính vi mô, luận án chỉ tập trung phân tích các tổ chức đã chuyển đổi được cấp phép hoạt động theo luật tổ chức tín dụng (gồm TYM, M&-MFI, TCTCVM Thanh Hóa và CEP) và các quỹ xã hội, tổ chức/chương trình/dự án tài chính vi mô có đăng kí và có thực hiện việc thống kê, báo cáo hàng năm cho Ngân hàng Nhà nước.

Ngoài ra, do được hình thành sau so với các tổ chức tài chính vi mô hoạt động tại các quốc gia khác thuộc khu vực châu Á, MFIs tại Việt Nam không chỉ cách biệt về số lượng các tổ chức cung ứng dịch vụ, mà quan trọng hơn còn có những đặc điểm khác biệt so với MFIs trong nhóm đồng đẳng.

Thứ nhất, quy mô của MFIs Việt Nam nhỏ hơn so với các tổ chức trong nhóm đồng đẳng, nguồn huy động từ tiết kiệm chưa thể hiện đóng vai trò chính và chủ yếu tại các tổ chức tài chính vi mô, vốn chủ sở hữu và các khoản nợ chiếm đa số trong tổng nguồn vốn của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam và các khoản vay từ các đơn vị tư nhân chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ.

Thứ hai, chi phí hoạt động của MFIs Việt Nam được ghi nhận là thấp hơn so với MFIs tại các quốc gia khác, do đó, các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam đạt được lợi nhuận và duy trì mức độ bền vững ở mức tương đối ổn định qua các năm so với các tổ chức tài chính vi mô tại quốc gia khác.

Thứ ba, khách hàng của MFIs Việt Nam đa phần là nữ giới cho thấy các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam đang đảm bảo theo đuổi mục tiêu hiệu quả xã hội.

2.4 Cấu trúc vốn của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam

2.4.1. Thực trạng cấu trúc vốn của các TCTCVM được cấp phép tại Việt Nam

Căn cứ vào dữ liệu được cung cấp bởi Nhóm công tác tài chính vi mô tại Việt Nam, tác giả nhận thấy cấu trúc nguồn vốn của các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép tại Việt Nam khá đa dạng khi cấu thành bởi các nguồn gồm vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn vay và vốn khác. Trong đó, các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép đều có sự tăng trưởng rất


ấn tượng trong tỷ lệ vốn huy động từ tiền gửi trên tổng nguồn vốn, đồng thời cũng khẳng định tiết kiệm đang dần trở thành nguồn vốn quan trọng nhất trong hoạt động của tổ chức. Trái lại, do những vướng mắc trong vấn đề pháp lý, cơ chế vay vốn từ các tổ chức và cá nhân bằng ngoại tệ, hay năng lực hoạt động còn hạn chế nên tỷ lệ vốn vay trong tổng nguồn vốn suy giảm theo thời gian.

2.4.2 Thực trạng cấu trúc vốn của các TCTCVM có đăng kí tại Việt Nam

So với các TCTCVM được cấp phép, tổ chức có đăng kí có cơ cấu vốn có phần kèm đa dạng hơn; trong đó, vốn chủ sở hữu – nguồn vốn đa phần được tạo lập bởi vốn góp ban đầu và vốn nhận tài trợ chiếm gần 50% tổng nguồn vốn của MFIs có đăng kí, nguồn vốn vay và vốn huy động đang chiếm tỷ lệ gần như ngang bằng nhau với dao động trong khoảng 21% - 28%, và cuối cùng là vốn khác chiếm một tỷ lệ tương đối khiêm tốn ở mức 1% - 4%.

2.5 Mức độ bền vững của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam

2.5.1 Thực trạng về mức độ bền vững của các TCTCVM được cấp phép tại Việt Nam

Chỉ số OSS của các tổ chức đều cao hơn 100% - phản ánh thu nhập từ hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép đều có thể trang trải cho toàn bộ chi phí hoạt động, và đặc biệt chỉ số OSS của từng tổ chức qua các năm cũng không có sự biến động quá lớn. Tuy nhiên, nếu căn cứ theo thông lệ quốc tế và nhận định của Nguyễn Kim Anh, Lê Thanh Tâm và cộng sự (2013) về tỉ lệ mức độ bền vững hoạt động trong dài hạn, thì hiện tại chỉ có TYM và CEP là đáp ứng yêu cầu. Song, chỉ số OSS của TYM cũng không chênh quá nhiều so với ngưỡng chuẩn, còn đối với CEP do mới bước vào quá trình chuyển đổi nên OSS cũng chưa thực sự ổn định và có thể biến động trong các năm tiếp theo. Chính vì vậy, việc duy trì và nâng cao chỉ số này trong thời gian tới là điều cần thiết để đảm bảo hoạt động bền vững của MFIs được cấp phép.

2.5.2. Thực trạng về mức độ bền vững của các TCTCVM có đăng kí tại Việt Nam

Chỉ số OSS bình quân của các tổ chức có đăng kí qua các năm đều cao hơn 120%, và đặc biệt có phần cao hơn so với các tổ chức được cấp phép. Tuy nhiên, khi tập trung phân tích OSS của từng tổ chức có đăng kí có thể thấy mức độ bền vững của các tổ chức có sự chênh lệch rất lớn, và đặc biệt số lượng các tổ chức có đăng kí có chỉ số OSS lớn hơn 120% ngày càng suy giảm.

2.6. Hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam

2.6.1 Mức độ tiếp cận (A)

So sánh về số lượng khách hàng đang vay vốn bình quân tại tổ chức tài chính vi mô


được cấp phép và có đăng kí có thể thấy mức độ tiếp cận của các tổ chức được cấp phép là cao hơn so với tổ chức có đăng kí.

2.6.2 Tỉ lệ dư nợ bình quân trên thu nhập bình quân (B)


So sánh về sự thay đổi của dư nợ bình quân/GNI bình quân đầu người qua các năm tại tổ chức được cấp phép và có đăng kí có thể thấy tỉ lệ này không thay đổi quá nhiều theo thời gian.

2.6.3 Chi phí trên một khách hàng vay (C)

Chi phí trên một khách hàng vay vốn bình quân tại tổ chức được cấp phép là cao hơn tương đối so với tổ chức có đăng kí.

2.6.4 Tỉ lệ khách hàng nữ (D)

Tỷ trọng khách hàng nữ trên tổng số khách hàng đang vay vốn tại các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép và có đăng kí luôn chiếm tới hơn 88%.

2.6.5 Số lượng chi nhánh (E)

Số lượng chi nhánh trong nghiên cứu này được nhận định có rất ít biến động; và do đó, sẽ được loại trừ khi tính toán giá trị SPI.

2.6.6 Tỉ lệ nợ rủi ro (G) và tỉ lệ xóa nợ (H)

Tỷ lệ dư nợ rủi ro trên 30 ngày và tỷ lệ xóa nợ bình quân của các tổ chức được cấp phép luôn thấp hơn so với tổ chức có đăng kí.

2.6.7 Chỉ số SPI

Chỉ số hiệu quả xã hội (SPI) của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam giai đoạn 2011 – 2017 có xu hướng giảm dần theo thời gian. Đặc biệt, so sánh giữa tổ chức tài chính vi mô được cấp phép và tổ chức tài chính vi mô có đăng kí thì hệ số SPI của tổ chức có đăng kí lại có phần nhỉnh hơn, phản ánh hiệu quả xã hội của các tổ chức có đăng kí là tốt hơn


CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC VỐN ĐẾN MỨC ĐỘ BỀN VỮNG VÀ HIỆU QUẢ XÃ HỘI CỦA CÁC TỔ CHỨC

TÀI CHÍNH VI MÔ TẠI VIỆT NAM


3.1 Tổng quan mô hình kinh tế lượng đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam

3.1.1 Mô hình tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững

Mô hình thứ nhất: mô hình cho chuỗi dữ liệu tại nhiều quốc gia.


Hình 3 1 Mô hình cho chuỗi dữ liệu tại nhiều quốc gia Mô hình thứ hai mô 1

Hình 3.1: Mô hình cho chuỗi dữ liệu tại nhiều quốc gia

Mô hình thứ hai: mô hình cho chuỗi dữ liệu tại một quốc gia.


Hình 3 2 Mô hình cho chuỗi dữ liệu tại một quốc gia Mô hình thứ ba mô hình 2

Hình 3.2: Mô hình cho chuỗi dữ liệu tại một quốc gia

Mô hình thứ ba: mô hình chỉ tập trung vào đánh giá sự tác động của cấu trúc vốn tới mức độ bền vững của tổ chức tài chính vi mô.

Hình 3 3 Mô hình tập trung vào đánh giá sự tác động của cấu trúc vốn Qua 3

Hình 3.3: Mô hình tập trung vào đánh giá sự tác động của cấu trúc vốn

Qua phân tích ba mô hình đo lường sự tác động của cấu trúc vốn lên mức độ bền vững của MFIs, tác giả nhận thấy với đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án là về các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam thì mô hình thứ hai – mô hình cho chuỗi dữ liệu tại một quốc gia là phù hợp hơn cả với nghiên cứu này.


3.1.2 Mô hình tác động của cấu trúc vốn đến hiệu quả xã hội

Mô hình thứ nhất: mô hình chỉ phân tích dựa trên nhóm yếu tố vi mô.


Hình 3 4 Mô hình chỉ sử dụng các biến số vi mô Mô hình thứ hai mô hình phân 4

Hình 3.4: Mô hình chỉ sử dụng các biến số vi mô

Mô hình thứ hai: mô hình phân tích dựa trên cả nhóm yếu tố vi mô và vĩ mô.


Hình 3 5 Mô hình sử dụng cả biến số vi mô và vĩ mô Qua phân tích hai mô hình 5

Hình 3.5: Mô hình sử dụng cả biến số vi mô và vĩ mô

Qua phân tích hai mô hình đo lường sự tác động của cấu trúc vốn lên hiệu quả xã hội của MFIs, tác giả nhận thấy mô hình thứ nhất – mô hình phân tích chỉ dựa trên nhóm yếu tố vi mô là phù hợp hơn, bởi nghiên cứu chỉ tập trung vào phân tích đối tượng là các tổ chức tài chính vi mô tại một quốc gia là Việt Nam.

3.2 Đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững và hiệu quả xã hội của các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam thông qua mô hình kinh tế lượng

3.2.1 Mô tả mô hình

Căn cứ vào khung phân tích được xây dựng, câu hỏi nghiên cứu 1 về tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững của tổ chức tài chính vi mô sẽ được phân tích qua mô hình như sau:

OSS = β0 + β1* EAit + β2 *DPit 3*BAit + β4*OAit + β5*Sizeit + β6*FBit + β7*OERit + β8*CPBit + β9*BPLOit + β10*PAR30it + β11*AGEit + β12*PSit + β13*RSit + β14*LMit + ε (1)

Trong đó:

Β0: Hệ số tự do

β1-14: Các hệ số hồi quy riêng ε: Sai số ngẫu nhiên


OSS: Mức độ bền vững

EA: Tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản DP: Tỉ lệ vốn huy động trên tổng tài sản BA: Tỉ lệ vốn vay trên tổng tài sản

OA: Tỉ lệ nợ khác trên tổng tài sản

Size: Quy mô theo tổng dư nợ của tổ chức tài chính vi mô FB: Tỉ lệ khách hàng nữ

OER: Tỉ lệ chi phí hoạt động CPB: Chi phí trên một khách hàng

BPLO: Số khách hàng vay trên một cán bộ tín dụng PAR 30: Tỉ lệ dư nợ trên 30 ngày

AGE: Thời gian hoạt động của tổ chức tài chính vi mô PS: Lợi tức trung bình trên tổng dư nợ

RS: Tình trạng pháp lý LM: Phương thức cho vay

Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu 2, mô hình hồi quy tuyến tính nhiều biến cũng được sử dụng; trong đó, biến phụ thuộc là SPI, biến độc lập là vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EA), vốn huy động từ tiền gửi trên tổng tài sản (DP), vốn vay trên tổng tài sản (BA), nợ khác trên tổng tài sản (OA), quy mô (size), số khách hàng trên một cán bộ tín dụng (BC), lợi tức trung bình trên tổng dư nợ (PS), tình trạng pháp lý (RS), phương thức cho vay (LM), thời gian hoạt động (AGE) và biến trễ SPI và PS. Cụ thể, mô hình có công thức như sau:

SPI = β0 + β1* EAit + β2 *DPit 3 *BAit + β4*OAit + β5*Sizeit + β6*BC it + β7*PSit + β8*RSit+ β9*LMit + β10*AGEit + β11*Lag SPIit + β12*Lag PSit € (2)

β0: Hệ số tự do

β1-12: Các hệ số hồi quy riêng

€: Sai số ngẫu nhiên

3.2.2 Mô tả các biến sử dụng trong mô hình

3.2.2.1 Các biến sử dụng trong mô hình đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững

a) Biến phụ thuộc

Biến phụ thuộc được sử dụng trong mô hình đo lường tác động của cấu trúc vốn đến mức độ bền vững là biến OSS.

b) Biến độc lập

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/04/2022