Sở Thích Rủi Ro Và Rủi Ro Trong Hoạt Động Cho Vay Tdvm.


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN


1.1. Đặt vấn đề.


Trên thế giới, kinh tế học hành vi đã và đang phát triển với tốc độ nhanh và đã chứng minh được sự tác động tích cực của nó đối với nhiều lĩnh vực, ngành nghề trong một nền kinh tế bao gồm cả lĩnh vực kinh tế cũng như lĩnh vực xã hội. Nhiều nhà khoa học đã mô phỏng các thí nghiệm về hành vi của con người để vận dụng các kết quả nghiên cứu đó vào việc ra quyết định, quyết định các vấn đề kinh tế-xã hội trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội kể cả của một cá nhân, một doanh nghiệp hoặc một tổ chức. Quyết định về một vấn đề nào đó của một cá nhân có thể ảnh hưởng không những đến bản thân cá nhân họ mà còn có thể ảnh hưởng đến cả một tổ chức hoặc thậm chí cả một xã hội. Trong lĩnh vực ngân hàng, TCVM đã hình thành và phát triển từ lâu trên thế giới và thông qua các nghiên cứu của các nhà kinh tế đã cho thấy và chứng minh được vai trò, tác động của nó đối với phát triển kinh tế nói chung và cho công cuộc xóa đói giảm nghèo nói riêng. TCVM tại Việt Nam mới chỉ phát triển gần đây, hoạt động của các tổ chức TCVM chính thức còn rất hạn chế so với nhu cầu rất lớn của nền kinh tế. Thống kê của NHNN Việt Nam đến cuối năm 2018 có 16 công ty tài chính với 6 công ty là công ty con của các ngân hàng lớn gồm: Fccom của ngân hàng Hàng hải, Fe Credit của VP Bank, HD Saison của HD Bank, SHB Finance của SHB, MCredit của MB Bank và Tài chính Bưu điện của SEA Bank. Hiện nay, sự ra đời của các công ty tài chính đang bùng nổ tại Việt Nam nhằm khai thác mảng cho vay tiêu dùng hiện còn tiềm năng rất lớn và đang còn chưa đáp ứng được theo nhu cầu của thị trường tại Việt Nam. Theo báo cáo của NHNN Việt Nam1, tính đến cuối năm 2018 tổng dư nợ toàn nền kinh tế khoảng 7,2 triệu tỷ đồng, trong đó tổng dư nợ tín dụng phi chính thức chiếm khoảng hơn 20%. Tuy nhiên, do nguồn cung vốn tín dụng chính thức không đáp ứng được nhu cầu của người dân, đặc biệt là những món vay nhỏ, lẻ hoặc người vay không có tài sản đảm bảo để thế chấp cho các tổ chức cho vay chính thức, dẫn đến tình trạng bùng


1 https://www.sbv.gov.vn/


phát "tín dụng đen" tại khắp nơi dưới hình thức các công ty tài chính cho vay tiêu dùng, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế-xã hội tại nhiều địa phương. Do vậy, nghiên cứu vấn đề rủi ro trong hoạt động TDVM, tác động của rủi ro trong TDVM đối với hoạt động TCVM là vấn đề cấp thiết và quan trọng đối với Việt Nam hiện nay. Qua đó, giúp cho Chính phủ, NHNN, các TCTD cũng như các tổ chức TCVM có những thể chế, chính sách, quy định hoặc sản phẩm phù hợp để đáp ứng nhu cầu của người dân cũng như hạn chế phần nào vấn nạn "tín dụng đen", tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được nguồn vốn vay chính thức phù hợp với điều kiện thực tế của họ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.

Đói nghèo luôn là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mọi quốc gia trên thế giới. Có giảm thiểu được nghèo đói, ổn định cuộc sống cho người dân thì mới có thể phát triển nền kinh tế hiệu quả và bền vững. TCVM đã được phát triển từ lâu trên thế giới, và cho đến nay, nó đã khẳng định được vai trò và tầm quan trọng trong việc giảm thiểu đói nghèo và giúp cải thiện đời sống trong cộng đồng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Mặc dù ra đời sau, nhưng các tổ chức TCVM ở Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ trong việc cải thiện đời sống cho những người dân nghèo, hoàn cảnh khó khăn và không có điều kiện để vay vốn cho mục đích sản xuất, tiêu dùng... từ các nguồn vốn vay chính thức. Trong Luật các TCTD năm 2010, tổ chức TCVM được thừa nhận tại Việt Nam như là một loại hình TCTD chính thức. Đến nay, các phương thức và mô hình hoạt động của các tổ chức TCVM ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và phát triển. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, vẫn còn rất nhiều vấn đề vướng mắc nảy sinh mà các cơ quan Nhà nước có liên quan cần xem xét, đánh giá và điều chỉnh để có thể giúp cho hoạt động của các tổ chức TCVM đạt hiệu quả cao nhất. Nhà nước cần quan tâm chú trọng hơn nữa đến mục tiêu hỗ trợ về chính sách, thể chế hoặc hỗ trợ huy động thêm nhiều nguồn vốn từ xã hội để gia tăng quy mô vốn của các tổ chức TCVM, nhằm giúp họ có điều kiện cung cấp nguồn vốn vay cải thiện cuộc sống của người nghèo ngày càng tốt hơn.


Sở thích rủi ro, vốn xã hội và rủi ro cho vay tín dụng vi mô – Nghiên cứu thí nghiệm tại vùng đồng bằng sông Cửu Long - 3

Cho đến nay, ngoài các tổ chức TCTD gồm Agribank, NHCSXH và các TCTD khác có cung cấp dịch vụ cho vay TDVM, các tổ chức TCVM thuộc khu vực bán chính thức và phi chính thức hoạt động khá tốt, tiếp tục đóng góp một phần nguồn vốn vay TDVM hữu hiệu, hỗ trợ và giúp đỡ cho người nghèo tại các vùng nông thôn sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn giảm thiểu đói nghèo và ổn định cuộc sống. Ngoài ra, nhiều chương trình của các tổ chức NGO và các tổ chức xã hội cũng có những đóng góp tích cực cho người nghèo ở những vùng nông thôn sâu, vùng xa và đặc biệt là cho phụ nữ nghèo. Nghiên cứu của Nguyễn Đức Hải (2012), Phạm Bích Liên (2016), Nguyễn Quỳnh Phương (2017) đã khái quát về việc phát triển TCVM tại Việt Nam với đối tượng là các tổ chức TCVM chính thức và bán chính thức tại Việt Nam. Thông qua đó, các tác giả đề ra các giải pháp, khuyến nghị chính sách để phát triển hoạt động của các tổ chức TCVM tại Việt Nam.

1.1.1. Sở thích rủi ro và rủi ro trong hoạt động cho vay TDVM.


Thuật ngữ TDVM1 trong luận án này được hiểu là những món vay nhỏ, lẻ của các TCTD và các tổ chức TCVM cung cấp cho khách hàng vay vốn. Căn cứ theo thông tư số 43/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của NHNN Việt Nam thì mức cho vay tối đa với một khách hàng của các tổ chức TCVM, các công ty Tài chính là 100 triệu đồng. Mặt khác, TDVM là một trong những dịch vụ của các tổ chức TCVM (tín dụng vi mô, tiết kiệm vi mô, bảo hiểm, thanh toán) bao gồm ba sản phẩm dịch vụ tín dụng là cho vay cá thể, cho vay theo nhóm tương hỗ và cho vay gián tiếp theo nhóm tương hỗ qua trung gian thứ ba (Nguyễn Kim Anh và cộng sự, 2017). Như vậy trong luận án này có thể hiểu TDVM là một sản phẩm cho vay trong hoạt động tín dụng của các TCTD và là một trong những dịch vụ chính của các tổ chức TCVM tại Việt Nam.

Trong một nền kinh tế, TDVM là hoạt động tín dụng trực tiếp đối với khách hàng với những món vay nhỏ lẻ, do vậy rủi ro tín dụng và vấn đề quản lý rủi ro


1 Khái.niệm của NHNN Việt Nam sử dụng trong phần giới thiệu về hoạt động TCVM tại. Việt Nam (https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/hdk/tcvm/).


TDVM là một thách thức lớn đối với các TCTD có hoạt động TDVM, các tổ chức TCVM cũng như với xã hội. Người ta có thể dựa vào thái độ và hành vi của một người đối với vấn đề rủi ro để dự đoán các hành vi kinh tế, việc ra quyết định của họ và nó có ảnh hưởng trực tiếp từ hành vi, hoạt động của người vay vốn đến rủi ro như đầu tư, sản xuất, tiêu dùng và hành vi đối với rủi ro. Đã có nhiều nghiên cứu về TCVM và khung lý thuyết trên thế giới có mức độ ảnh hưởng lớn đến việc ra quyết định trong hoàn cảnh rủi ro đó là lý thuyết thỏa dụng kỳ vọng (expected utility theory) được Neumann và Morgenstern (1944) đưa ra. Lý thuyết triển vọng (prospect theory) của Tversky và Kahnerman (1979) đã chỉ ra rằng con người thường tìm rủi ro về phía mất và né tránh rủi ro về phía được. Từ lý thuyết này, Tversky và Kahnerman đã đưa ra lý thuyết triển vọng, với định nghĩa hàm giá trị (value function) của lý thuyết triển vọng xác định bởi điểm lời và điểm lỗ so với điểm tham chiếu. Nghiên cứu của Wen và cộng sự (2014) kết luận rằng sở thích rủi ro có liên quan đến thái độ đối với rủi ro trong việc ra quyết định của các nhà đầu tư. Như vậy, có thể thấy rằng sở thích rủi ro là việc hướng tới các quyết định rủi ro của các cá nhân, các nhà đầu tư đối với tài sản nhằm mục đích thu được mức sinh lợi cao nhất. Ackert và Deaves (2013) cho rằng việc thực hiện các quyết định tập trung chủ yếu vào cái được và cái mất. Handa (1971) cho rằng sở thích rủi ro là việc lựa chọn giữa một tài sản có rủi ro cao so với tài sản có rủi ro thấp để nhà đầu tư có thể nhận được một tỷ suất lợi nhuận cao hơn.

Việc ra quyết định gặp rủi ro là vấn đề phổ biến và mức độ mà mọi người sẵn sàng chấp nhận nguy cơ tạo thành sở thích rủi ro. Để phân tích kinh tế hoặc đưa ra các quy định chính sách thì việc đánh giá và đo lường sở thích rủi ro của các cá nhân là đặc biệt quan trọng. Nghiên cứu của Charness và cộng sự (2013), Eckel, Dave và cộng sự (2010) đúc kết rằng kinh tế học có thể xem xét, tập trung vào các phương pháp gợi mở khi phân tích điều tra sở thích rủi ro và sở thích được gợi ra có thể bị tác động và ảnh hưởng bởi thước đo được sử dụng.


Theo Stiglitz và Weiss (1981) thì người vay vốn có động cơ và khuynh hướng đầu tư nhiều hơn vào các dự án có nhiều rủi ro. Có nghĩa là người vay vốn có nợ xấu sẵn sàng chấp nhận lãi suất cao cho những món vay của mình (chấp nhận rủi ro cao). Thí nghiệm của Zeballos và cộng sự (2014) tại Bolivia cho thấy những người vay không có nợ xấu tìm kiếm rủi ro nhiều hơn là người vay có nợ xấu. Kết quả này trái ngược với giả thuyết của Stiglitz và Weiss (1981): Những người đầu tư vào những dự án kém rủi ro hơn là những người có nợ xấu. Người nghèo không trả được nợ vay của họ bởi vì họ không dám chấp nhận rủi ro do đó làm cho khoản vay không có hiệu quả và kết quả là họ không thể hoàn trả lại khoản vay của họ (Zeballos và cộng sự, 2014).

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Vieider và cộng sự (2013) về sở thích rủi ro kết luận rằng nhìn chung, nông dân Việt Nam trung lập với rủi ro ở mức trung bình (average risk neutral). Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy thu nhập có tương quan trái chiều với tính né tránh rủi ro, tuy nhiên, mối tương quan với sự giàu có của nó thì không đáng kể. Cũng ở Việt Nam, nghiên cứu của Tanaka và cộng sự (2010) cho rằng người nghèo thì ít kiên nhẫn hơn người có thu nhập trung bình cao.

Cũng thông qua quá trình lược khảo, trên phương diện xem xét, đánh giá sở thích rủi ro, tác giả nhận thấy đã có nhiều nghiên cứu về sở thích rủi ro liên quan đến nhiều đối tượng và lĩnh vực như chứng khoán, TDVM, sản xuất, tiêu dùng, giải trí, sức khỏe, giáo dục, cờ bạc ... Về không gian thì bao gồm nhiều khu vực, cả khu vực thành thị và khu vực nông thôn. Kết quả cũng cho thấy có nhiều sự khác biệt đối với các đối tượng nghiên cứu, địa bàn cũng như các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu để so sánh sự khác biệt giữa hai khu vực nông thôn và thành thị thì chưa có nghiên cứu cụ thể và chi tiết nào. Đối tượng là sinh viên có các nghiên cứu của Eckel và Dave (2010), Eckel và Grossman (2008). Nghiên cứu vùng nông thôn, nông dân có các nghiên cứu của Start (2013), Binswanger (1980), Banerjee và Mullainathan (2010), Stiglitz và Weiss (1981). Nghiên cứu vùng ngoại ô, vùng bán nhiệt đới có các nghiên cứu của Giné và cộng sự (2010); vùng cao ở Ethiopia


có nghiên cứu của Vieider và cộng sự (2015). Binswanger (1980) nghiên cứu ở vùng bán nhiệt đới của Ấn Độ (SAT) để đánh giá tác động của rủi ro và e ngại rủi ro đối với nông nghiệp giữa người giàu và người nghèo, giữa người trẻ tuổi và người lớn tuổi.

Tại Việt Nam, có các nghiên cứu của Nguyen và cộng sự (2016), Tanaka và cộng sự (2010) tại các làng quê miền Bắc và miền Nam nghiên cứu tác động của thái độ rủi ro và sở thích rủi ro về thời gian đối với sự tin tưởng và sự tin cậy, e ngại rủi ro và tính kiên nhẫn (time preference). Trong nghiên cứu này, tác giả cũng muốn xem xét đến sự khác biệt về sở thích rủi ro giữa khu vực nông thôn và thành thị. Vậy thì những yếu tố, đặc điểm hành vi nào của người vay vốn TDVM có tác động đến rủi ro trong hoạt động cho vay TDVM? Đây là khoảng trống và vấn đề mà tôi quan tâm nghiên cứu.

1.1.2. Vốn xã hội và rủi ro trong hoạt động cho vay TDVM.


Cho đến nay, vốn xã hội (social capital) cũng đã được nghiên cứu nhiều và cũng được xem như là một loại vốn và do vậy cũng ảnh hưởng lớn đến rủi ro trong hoạt động cho vay TDVM. Sự tin cậy và niềm tin là hai vấn đề quan trọng nằm bên trong vốn xã hội cá nhân. Vốn xã hội là mạng lưới xã hội có tính bền vững, sự thông cảm và sự tương tác lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội (Bourdieu, 1986; Fukuyama, 2001-2002; Coleman, 1988; Portes, 1998; v.v…). Theo Karlan (2005), thì vốn xã hội là khả năng và các mối quan hệ xã hội của một cá nhân cho phép họ vượt qua hoặc hạn chế và khắc phục những nhược điểm về thông tin không hoàn hảo và các hình thức giao kết khác. Nói cách khác, các thành tố và mục tiêu nghiên cứu của vốn xã hội có thể bao gồm vốn xã hội và mạng lưới xã hội; vốn xã hội và nguồn lực; vốn xã hội, đầu tư vốn xã hội và mưu cầu lợi ích; vốn xã hội và sự tin cậy và quan hệ có qua có lại (trust and reciprocity); vốn xã hội và hàng hóa công (public goods) v.v… Glaeser và cộng sự (2000) cho rằng hành vi con người trong trò chơi niềm tin có tương quan với văn hóa và quá trình tương tác trước đó của những người tham gia. Những người được tin tưởng hơn thì sẽ đáng tin cậy


hơn, tuy nhiên họ lại không đáng tin cậy trong trò chơi niềm tin. Các nhà nghiên cứu cho rằng lòng tin (trust) được thừa nhận như là một yếu tố quan trọng của vốn xã hội. Nhiều nhà khoa học và nhà kinh tế tiếp cận và nghiên cứu về TCHV đối với thị trường tài chính để thích ứng với những khó khăn, vướng mắc đối với các mô hình truyền thống. Glaeser và cộng sự (2000) phân tích lòng tin và vốn xã hội, kết quả cho thấy niềm tin và sự tin cậy tăng lên với sự kết nối xã hội. Sự khác biệt về chủng tộc và quốc tịch làm giảm mức độ đáng tin cậy.

Hiện nay tại Việt Nam, Nhà nước và các nhà kinh tế rất quan tâm đến việc nghiên cứu tác động của vốn xã hội. Do tính đặc thù của vốn xã hội nên các nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam thường tập trung tại khu vực nông thôn. Kết quả nghiên cứu về vốn xã hội và vấn đề dồn điền đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp tại một làng Bắc Trung bộ Việt Nam của Nguyễn Tuấn Anh và Thomése (2007) cho thấy, nhờ vào vốn xã hội mà các vấn đề khó khăn, rắc rối và phức tạp trong việc dồn điền đổi thửa đã được thực hiện tốt và phi chính thức không cần đến các biện pháp hành chính hay pháp lý. Những nghiên cứu của Hoàng Bá Thịnh (2009) đã đề cập đến những phí tổn phải có để duy trì vốn xã hội. Trần Hữu Dũng (2003) cho rằng nên làm rõ hơn đặc điểm của vốn xã hội trong mối quan hệ và tương tác với các loại vốn khác. Gợi ý sự quan trọng và hiệu quả của vốn xã hội trong việc vay vốn khởi nghiệp đối với các doanh nghiệp nhỏ cũng được nghiên cứu và đưa ra bởi Appold và Nguyễn Quý Thanh (2004).

Ngô Thị Phương Lan (2011) nghiên cứu về hành vi giảm thiểu rủi ro và vận dụng nguồn vốn xã hội ở ĐBSCL vào việc chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp từ trồng lúa sang nuôi tôm. Tác giả đã nghiên cứu tác động của hành vi kinh tế của người nông dân và các mối quan hệ xã hội của họ trong việc chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm. Vốn xã hội có tác động lớn đến hoạt động của nông dân trong các mối quan hệ xã hội như tương trợ về vốn, tương trợ về kỹ thuật, thông tin thị trường, về lao động… Chính nhờ vốn xã hội mà đã giảm thiểu nhiều rủi ro từ việc chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm. Điểm tập trung của nghiên cứu là phân tích


tư duy giảm thiểu và phân tán rủi ro, các dạng thức quan hệ xã hội và vai trò của các quan hệ xã hội trong hoạt động kinh tế của nông dân qua nghiên cứu trường hợp nuôi tôm; tìm hiểu về những sự tương trợ trong hoạt động sản xuất mà còn thiếu tập trung vào những mâu thuẫn lợi ích trong nông dân miền Tây. Nghiên cứu có đề cập đến những xung đột và mâu thuẫn trong quá trình sản xuất đặc biệt là về nguồn nước và nạn trộm cắp trong cộng đồng.

* Vốn xã hội và hoạt động tín dụng.


Karlan (2005) tìm ra rằng càng có vốn xã hội cao thì khả năng trả nợ tốt và có tiết kiệm càng cao. Wenner (1995) nghiên cứu chương trình tín dụng ở Costa Rica nhận thấy rằng các nhóm bảo vệ, giám sát các thành viên và sử dụng thông tin địa phương có tỷ lệ nợ xấu thấp hơn nhóm không giám sát. Greiner và Wang (2009) nghiên cứu vấn đề cho vay trực tiếp P2P (people-to-people) tức là cho vay cá nhân không qua các ngân hàng, kết quả cho thấy có sự không đối xứng thông tin giữa các bên cho vay và bên đi vay.

Mwangi và Ouma (2012) nghiên cứu vai trò của vốn xã hội đối với việc tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình ở nông thôn Kenya. Kết quả có mối quan hệ tích cực giữa vốn xã hội và việc tiếp cận tín dụng. Đồng thời, cũng khuyến cáo các TCTD nên đưa yếu tố vốn xã hội vào sản phẩm cho vay và phải có tất cả các thông tin liên quan đến người vay. Cassar và cộng sự (2010) nghiên cứu mô phỏng 1.554 người tham gia trong 259 nhóm vay thử nghiệm với hình thức vay theo nhóm. Kết quả cho thấy niềm tin xã hội có tác động tích cực và đáng kể đến tỷ lệ đóng góp của cho vay nhóm đến việc tạo ra vốn xã hội.

Basargekar (2010) khảo sát mẫu 217 thành viên tham gia chương trình vi mô khu vực đô thị ở Ấn Độ để đánh giá tác động của vốn xã hội vào việc trao quyền xã hội cho họ. Kết quả cho thấy các chương trình TCVM được thực hiện bởi các tổ chức đã tạo ra một nguồn vốn xã hội có tác động trao quyền cho các thành viên tham gia. Nghiên cứu cũng lưu ý vốn xã hội không tự động tạo ra mà các tổ chức

Xem tất cả 221 trang.

Ngày đăng: 03/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí