Nguyên Tắc Cá Thể Hóa Hình Phạt Trong Quyết Định Hình Phạt

nhân thân người phạm tội để tuyên một hình phạt giảm nhẹ cho bị cáo [18, tr. 39].

Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở việc hạn chế sự trừng trị. Tức là trong một vụ án, tòa án có thể tuyên một trong những mức cho phép đối với bị cáo: cần thiết tối thiểu, mức cao hơn cần thiết tối thiểu, mức tối đa, thì ở góc độ của việc hạn chế sự trừng trị, tòa án nên tuyên mức hình phạt cần thiết tối thiểu. Trong mọi trường hợp không cho phép tòa án quyết định hình phạt với mức "dự trữ", tức là quá mức cần thiết.

2.2.3. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình phạt

Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt là nguyên tắc chung của luật hình sự, đồng thời cũng là nguyên tắc của quyết định hình phạt. Yêu cầu của nguyên tắc này là mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện và trừng phạt, không bỏ lọt tội phạm.

Cá thể hóa hình phạt là nguyên tắc tất yếu của việc quyết định hình phạt đối với người có hành vi phạm tội. Nguyên tắc này được nhà làm luật thể hiện trước hết ở Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999. Hình phạt được áp dụng đối với những tội nghiêm trọng và ít nghiêm trọng là khác nhau. Người phạm tội nghiêm trọng có thể phải chịu hình phạt tù, còn đối với người phạm tội ít nghiêm trọng có thể áp dụng một trong những hình phạt từ cảnh cáo, phạt tiền (với tư cách là hình phạt chính), cải tạo không giam giữ cho đến hình phạt tù. Nội dung của cá thể hình phạt cũng được thể hiện ở các điều luật quy định các giai đoạn phạm tội, đồng phạm, hệ thống các hình phạt và các điều kiện áp dụng chúng, cũng như quy định việc quyết định hình phạt đối với một số người phạm tội như người chưa thành niên, người già yếu, phụ nữ có thai.

Do đó, cá thể hóa hình phạt là một trong những nguyên tắc quan trọng của chế định hình phạt và là nguyên tắc đặc thù của quyết định hình phạt. Khi quyết định hình phạt, tòa án phải cân nhắc tất cả các tình tiết có trong vụ án

để đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Nếu tội phạm xảy ra xâm hại tới quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi đã thực hiện càng lớn và do vậy, tòa án phải quyết định một hình phạt nghiêm khắc hơn (so với trường hợp khác có các tình tiết tương đương). Trong trường hợp tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng phạm, khi quyết định hình phạt, tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia của từng người đồng phạm, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng người đồng phạm. Tòa án không chỉ xem xét hình thức phạm tội mà còn phải xem xét giai đoạn phạm tội; xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đã thực hiện, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng; xem xét các tình tiết khác phán ánh tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như tính nguy hiểm của công cụ, phương tiện phạm tội, thủ đoạn phạm tội, hoàn cảnh phạm tội, mức độ lỗi, động cơ, mục đích phạm tội… để từ đó quyết định hình phạt đúng đắn đối với người phạm tội.

Khi quyết định hình phạt, tòa án phải cân nhắc những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội như trình độ học vấn, lối sống, ý thức chính trị, ý thức pháp luật, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Tất nhiên, hình phạt đối với tội phạm luôn luôn là hình phạt đối với các hành vi phạm tội đã thực hiện, chứ không phải nhân thân người phạm tội [15, tr. 167]. Xem xét nhân thân người phạm tội để phục vụ cho việc cá thể hóa hình phạt đối với tội phạm, xem xét những đặc điểm nhất định có ảnh hưởng tới tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

2.2.4. Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt

Theo Từ điển tiếng Việt thì "công bằng" được hiểu là "theo đúng lẽ phải, không thiên vị". ở nước ta, tư tưởng công bằng luôn được thể hiện rò nét

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

trong đường lối chính sách của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước. Trong luật hình sự Việt Nam, tư tưởng công bằng được thể hiện xuyên suốt thông qua các quy phạm pháp luật hình sự, hình thành nên một nguyên tắc của luật hình sự-nguyên tắc công bằng.

Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt được hiểu là hình phạt phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, không phân biệt giới tính, dân tộc, địa vị kinh tế, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần xuất thân, tình trạng tài sản của người phạm tội… hình phạt càng phù hợp với hành vi phạm tội thì nguyên tắc công bằng càng được thực hiện triệt để.

Quyết định hình phạt trong đồng phạm theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 - 7

Công bằng không chỉ đặt ra đối với bản thân người có hành vi phạm tội mà còn phải đặt trong sự so sánh với những tội phạm khác và với những người phạm tội khác. Việc nhà làm luật phân loại tội phạm thành 4 loại cũng như quy định rò trường hợp hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng nguy hiểm không đáng kể thì không bị coi là tội phạm và bị xử lý bằng biện pháp khác cũng thể hiện rò nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt. Bởi các hành vi khác nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm thì mức độ xử lý phải khác nhau, không thể có mức xử lý ngang nhau đối với các trường hợp phạm tội cụ thể khác nhau. Chỉ khi nào hình phạt đã tuyên tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì khi đó hình phạt này mới chính xác, công bằng đối với người phạm tội và trong mối tương quan với tội phạm khác, hình phạt đã tuyên cũng phải có tính hợp lý, công bằng. Nếu có sự chênh lệch lớn giữa tội phạm và hình phạt thì khi đó nguyên tắc công bằng không thể đạt được. Tội phạm càng nguy hiểm thì hình phạt càng nghiêm khắc. Ngoài ra, các trường hợp phạm tội cụ thể của một tội phạm rất khác nhau về tính chất, mức độ nguy hiểm, do vậy, nhà làm luật quy định chế tài lựa chọn trong khung hình phạt để Tòa án tùy từng trường hợp cụ thể quyết định một hình phạt thực sự công bằng so với hành vi phạm tội của bị cáo, phản ánh đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Trong phạm vi cả nước, tòa án phải thống nhất trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nếu có. Không thể có việc đánh giá khác nhau đối với những vụ phạm tội có các tình tiết tương đương, do đó quyết định hình phạt không giống nhau dù các tình tiết là tương đương nhau.

Tòa án khi quyết định hình phạt phải cân nhắc toàn bộ các tình tiết có trong vụ án, không được bỏ sót bất cứ tình tiết nào có liên quan đến hành vi phạm tội cũng như khả năng đạt được mục đích của hình phạt, từ đó quyết định hình phạt thỏa đáng, công bằng đối với bị cáo. Bởi nếu tòa án bỏ sót một tình tiết nào đó sẽ dẫn đến hậu quả quyết định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ đối với bị cáo và rò ràng khi đó, nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt không thể đạt được.

Tóm lại, các nguyên tắc quyết định hình phạt là các nguyên tắc đặc thù cho quá trình quyết định hình phạt, định hướng cho hoạt động của tòa án để quyết định hình phạt đúng đắn cho người phạm tội. Các nguyên tắc quyết định hình phạt tuy đặc thù cho quá trình quyết định hình phạt nhưng chúng vẫn nằm trong thể thống nhất với các nguyên tắc của luật hình sự. Cùng với các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự, các nguyên tắc quyết định hình phạt có ý nghĩa lớn không những trong việc quyết định hình phạt nói riêng mà còn có ý nghĩa trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.


2.3. CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT


Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà có, buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm.

Điều 45 Bộ luật hình sự quy định về căn cứ quyết định hình phạt như sau: "Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,

nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự".

Như vậy, theo quy định của Điều 45 Bộ luật hình sự năm 1999 thì các căn cứ quyết định hình phạt bao gồm:

- Các quy định của Bộ luật hình sự;

- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của của hành vi phạm tội;

- Nhân thân người phạm tội ;

- Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Để có thể áp dụng chính xác những căn cứ trên khi quyết định hình phạt, đòi hỏi phải nhận thức đúng nội dung, bản chất, ý nghĩa pháp lý của từng căn cứ, cũng như mối liên hệ giữa các căn cứ này với nhau. Các căn cứ trên vừa có tính độc lập tương đối, lại vừa có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau tạo thành một thể thống nhất, đó là cơ sở pháp lý mà Tòa án phải tuân thủ khi quyết định hình phạt.

2.3.1. Các quy định của Bộ luật hình sự

Đây là một căn cứ có tính bao trùm, căn cứ này bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động xét xử của tòa án.

Khi quyết định hình phạt thì các quy định của Bộ luật hình sự bao giờ cũng là tiêu chuẩn pháp lý cao nhất để đảm bảo cho tòa án quyết định được một hình phạt đúng, tạo khả năng lớn nhất để đạt được mục đích của hình phạt.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, tức là căn cứ vào nội dung các quy định của Phần chung và Phần các tội phạm (điều luật quy định tội phạm mà bị cáo đã thực hiện). Theo đó, các quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự như: quy định về nguyên tắc xử lý (Điều 3); các quy định liên quan đến hình phạt (từ Điều 26 đến Điều 40); các quy định về các biện pháp tư pháp (từ Điều 41 đến Điều 44); các quy định về căn cứ quyết định hình

phạt (Điều 45); về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 46 và Điều 47); về các tình tiết tặng trách nhiệm hình sự (Điều 48); về tái phạm và tái phạm nguy hiểm (Điều 49); quy định về án treo (Điều 60)… Khi quyết định hình phạt, tòa án phải căn cứ vào tất cả các quy định của Phần chung nhưng không có nghĩa là trong mọi trường hợp tòa án phải viện dẫn tất cả các quy định của Phần chung vào trong vụ án cụ thể. Tòa án không thể và không cần phải làm điều đó. Vì những quy định đó đã được giải thích, nhận thức và phản ánh trong ý thức pháp luật của thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi họ giải quyết vấn đề quyết định hình phạt. Tòa án chỉ phản ánh trong bản án những quy định của Phần chung mà dựa vào đó để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện và nhân thân người phạm tội, đánh giá các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng có trong một vụ án cụ thể nhằm chọn loại và mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo. Đây là những quy định có tính chất định hướng chung không những là cơ sở cho việc xây dựng các quy định về quyết định hình phạt, các khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung áp dụng cho các tội phạm cụ thể mà còn là cơ sở giúp cho tòa án dựa vào đó để có thể quyết định hình phạt trong thực tế được đúng.

Khi quyết định hình phạt, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Phần chung Bộ luật hình sự, tòa án còn phải căn cứ vào các chế tài của điều luật quy định đối với tội phạm mà bị cáo đã thực hiện (Phần các tội phạm). Đối với mỗi loại tội phạm đều có một số loại hình phạt tương ứng được quy định ở chế tài của điều luật hoặc khoản của điều luật đó. Do đó, khi quyết định hình phạt, tòa án phải căn cứ vào loại và khung hình phạt được quy định đối với tội mà bị cáo đã thực hiện; căn cứ vào những chế tài cụ thể được quy định đối với tội phạm cụ thể do bị cáo đã thực hiện, để chọn một loại và mức hình phạt hợp lý, công bằng và nhân đạo nhất [17, tr. 146-147].

Tìm hiểu Bộ luật hình sự của một số nước như Bộ luật hình sự của Cộng hòa liên bang Nga, Trung Quốc, Thụy Điển, Hy Lạp… cho thấy nhiều

nước coi "các quy định của Bộ luật hình sự" là một căn cứ quyết định hình phạt. Điều đó chứng tỏ rằng vai trò quan trọng không thể thiếu của căn cứ này trong quyết định hình phạt. Ví dụ: Điều 61 Bộ luật hình sự của Trung Quốc quy định: "Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, hình phạt sẽ được áp dụng trên cơ sở những tình tiết thực tế về tội phạm, bản chất và hoàn cảnh phạm tội, mức độ gây thiệt hại cho xã hội, những quy định có liên quan của Bộ luật này" [Dẫn theo 18, tr. 59].

Như vậy, với yêu cầu của căn cứ này, khi quyết định hình phạt tòa án cần phải căn cứ vào tất cả các quy định của Bộ luật hình sự ở dạng thống nhất, tổng thể của chúng và phải cân nhắc chỉ rò trong bản án những quy định của Bộ luật hình sự có liên quan trực tiếp đến việc quyết định một hình phạt cụ thể đối với một bị cáo cụ thể. Căn cứ thứ nhất cho phép xác định được khung hình phạt để áp dụng hoặc khẳng định có thể áp dụng các biện pháp tha miễn như miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt được hay không.

Việc quyết định hình phạt đối với người thực hành và những người cùng thực hành trong vụ án đồng phạm giống với cơ sở để quyết định hình phạt trong trường hợp tội phạm do một người thực hiện, nghĩa là việc thực hiện hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định tại điều luật cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Do vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nước ta thừa nhận, khi áp dụng pháp luật đối với những người này không cần viện dẫn Điều 20 Bộ luật hình sự về đồng phạm. Còn cơ sở để quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức) là hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm trong sự kết hợp dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định tại điều luật về tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự với dấu hiệu của đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự. Để bảo đảm tính khoa học của việc quyết định hình phạt của những người đồng phạm, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 20 Bộ luật hình sự

theo hướng quy định: Khi viện dẫn điều luật để quyết định hình phạt của người thực hành và người cùng thực hành, không cần viện dẫn Điều 20 Bộ luật hình sự, còn đối với những người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức) thì khi viện dẫn điều luật để quyết định hình phạt đối với họ, ngoài điều khoản quy định về tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự phải viện dẫn thêm Điều 20 Bộ luật hình sự quy định về đồng phạm.

2.3.2. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

Để có thể quyết định được loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật cho phép, tòa án phải cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, trước hết được quyết định bởi ý nghĩa, tính chất, tầm quan trọng và giá trị của các quan hệ xã hội do tội phạm đó xâm hại-khách thể bị xâm hại. Bên cạnh khách thể bị xâm hại, tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm còn phụ thuộc vào các dấu hiệu khác về mặt khách quan, về mặt chủ quan, các dấu hiệu đặc trưng cho chủ thể.

Những tội phạm giống nhau về tính chất nguy hiểm cho xã hội có thể khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cũng được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu của cấu thành tội phạm và đó cũng là thuộc tính khách quan của tội phạm. Nếu tính chất của tội phạm là đặc tính về chất, thì mức độ nguy hiểm của nó là đặc tính về lượng của mỗi tội phạm cụ thể. Điều đó có nghĩa là khái niệm "tính chất" và "mức độ" nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không tách rời nhau, chúng tồn tại cùng nhau, bổ sung cho nhau và xâm nhập vào nhau.

Khi quyết định hình phạt, tòa án phải chỉ ra trong bản án những tình tiết cụ thể chứng minh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/05/2022