Khái Niệm Và Ý Nghĩa Của Quyết Định Hình Phạt

tội phạm; đồng phạm phức tạp có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn đồng phạm giản đơn.

- Căn cứ vào dấu hiệu chủ quan, chia các hình thức đồng phạm thành đồng phạm không có thông mưu trước và đồng phạm có thông mưu trước:

Đồng phạm không có thông mưu trước là hình thức đồng phạm trong đó không có sự thỏa thuận, bản bạc với nhau trước giữa những người đồng phạm hoặc có sự bàn bạc, thỏa thuận với nhau trước nhưng không đáng kể. Ở hình thức đồng phạm này, mối liên hệ về mặt chủ quan giữa những người đồng phạm ở mức thấp nhất, chỉ giới hạn ở mặt nhận thức của một người đồng phạm tham gia hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác thường là vào thời điểm bắt đầu thực hiện tội phạm hoặc trong quá trình thực hiện tội phạm. Lý do không cho những người đồng phạm chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, phối hợp chặt chẽ với nhau cũng như áp dụng các biện pháp che giấu, phối hợp chặt chẽ với nhau cũng như áp dụng các biện pháp che giấu, xóa dấu vết của tội phạm như ở đồng phạm có thông mưu trước.

Đồng phạm có thông mưu trước là hình thức đồng phạm có sự thỏa thuận, bàn bạc trước với nhau về tội phạm cùng thực hiện trước khi hoạt động tội phạm. Thực tiễn cho thấy đồng phạm có thông mưu trước có tính chất và mức độ nguy hiểm hơn so với hình thức đồng phạm không có thông mưu trước. Sự thông mưu trước cũng có thể rất chi tiết, cụ thể, nói lên mức độ phối hợp cao giữa những người đồng phạm trong việc cùng tham gia thực hiện tội phạm. Cũng có thể có những trường hợp, những người đồng phạm không chỉ thỏa thuận, bàn bạc trước về một tội phạm mà còn có thể về một số tội phạm cùng thực hiện, có kế hoạch chi tiết thực hiện từng tội phạm cụ thể. Cách thức trao đổi, thỏa thuận giữa những người đồng phạm có thể bằng lời nói, thư từ hoặc các tín hiệu riêng.

- Căn cứ vào những đặc điểm về mặt khách quan và chủ quan, đồng phạm được chia thành hai loại: đồng phạm có tổ chức và đồng phạm thường.

Đồng phạm có tổ chức là hình thức phạm tội có sự câu kết chặt chẽ của những người cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc của các thành viên cùng một tổ chức tội phạm [5, tr. 131].

Đồng phạm thường là hình thức đồng phạm không có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm.

* Phạm tội có tổ chức

Trong các hình thức đồng phạm có thông mưu trước thì phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt. Các văn bản pháp luật hình sự trước đây của nước ta [31, tr. 326; 9; 453] tuy có đề cập phạm tội có tổ chức nhưng đều chưa có quy định về khái niệm của hình thức này. Trong các văn bản đó, phạm tội có tổ chức mới chỉ được quy định là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt.

Hình thức phạm tội có tổ chức được quy định trong luật hình sự một số nước như Cộng hòa Pháp, Vương quốc Bỉ, Liên bang Nga, Malaysia… với các tên gọi và quan niệm khác nhau: băng có tổ chức, cướp có băng nhóm, nhóm có tổ chức [30, tr. 89-90].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm". Tình tiết phạm tội có tổ chức không những là tình tiết tăng nặng quy định ở Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 mà còn là tình tiết định khung hình phạt tại nhiều điều luật. Ngoài ra, Bộ luật hình sự còn quy định những trường hợp tổ chức thực hiện tội phạm thành những tội danh riêng biệt. Ví dụ: Điều 275 "Tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép"; Điều 148 "Tổ chức tảo hôn"; Điều 248 "Tổ chức đánh bạc" v.v.

Giống như các hình thức đồng phạm khác, phạm tội có tổ chức phải có từ hai người trở lên cố ý cùng tham gia tội phạm và có sự thống nhất ý chí của những người cùng thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, đặc điểm chủ yếu nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cao hơn cả của hình thức đồng phạm này là sự cấu kết chặt chẽ thể hiện cả ở mặt khách quan và chủ quan. Về mặt khách quan, trước khi phạm tội thường đã hình thành một tổ chức tội phạm với các quy mô khác nhau (lớn, nhỏ) của những người đồng phạm. Tổ chức tội phạm đó thường tồn tại trong một khoảng thời gian dài nhằm thực hiện nhiều tội phạm hay phạm tội nhiều lần và là các tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, có sự thỏa thuận, bàn bạc trước và phân công vai trò đã hình thành nên mối quan hệ và sự thống nhất hành động của họ chặt chẽ và bền vững [2, tr. 22].

Quyết định hình phạt trong đồng phạm theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 - 5

Trên thực tế, đồng phạm có tổ chức được thể hiện ở các dạng sau:

- Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội được hình thành với phương thức hoạt động có tính chất lâu dài, bền vững. Trong tổ chức này có mối quan hệ chỉ huy - phục tùng, có sự phân công vai trò cụ thể của từng người đồng phạm. Có thể tổ chức phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp của những tên tội phạm chuyên nghiệp để thống nhất cùng nhau thực hiện hoạt động phạm tội.

- Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo kế hoạch đã thống nhất trước.

- Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, đầy đủ mọi mặt như chuẩn bị công cụ, phương tiện hoạt động, chuẩn bị kế hoạch che giấu tội phạm [5, tr. 75-76].

Tội phạm có tổ chức là hệ thống các tội phạm được thực hiện bằng đồng phạm có tổ chức hay các tội phạm được thực hiện do thành lập, tham gia các tổ chức phạm tội trong khoảng thời gian không gian xác định.

Như vậy, việc phân loại các hình thức đồng phạm góp phần đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phục vụ cho việc xây dựng và hoàn thiện chế định đồng phạm trong phần chung của Bộ luật hình sự. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội chính là căn cứ thống nhất để phân loại các hình thức đồng phạm.

* Tổ chức phạm tội

Trong các nhóm phạm tội thì tổ chức phạm tội có tính chất nguy hiểm nhất, bởi vì những thành viên của tổ chức phạm tội không chỉ thỏa thuận với nhau về việc cùng tham gia thực hiện hoạt động tội phạm mà còn thống nhất hình thành những tổ chức bất hợp pháp bền vững, chặt chẽ.

Tổ chức phạm tội được thành lập với mục đích để thực hiện một hoặc nhiều tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tổ chức phạm tội được kết cấu theo kiểu phân công vai trò giữa các thành viên nên để đạt được mục đích phạm tội thì các thành viên cùng nhau phối hợp, điều chỉnh sự đóng góp cá nhân vào hậu quả phạm tội chung. Tổ chức phạm tội còn có đặc trưng cơ bản nữa là luôn chịu sự điều hành của một nhóm cầm đầu. Chính nhóm cầm đầu này đảm bảo sự phối hợp phạm tội của các thành viên và hướng các hoạt động này vào mục đích của tổ chức phạm tội [30, tr. 107-112].

Chương 2‌‌

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT


2.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT


2.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ Tòa án mới có quyền quyết định hình phạt. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 128), Tòa án xét xử những vụ án hình sự (Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002). Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định". Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Nhà nước giao cho tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng với người phạm tội, không một cơ quan nhà nước nào khác ngoài tòa án nhân dân có quyền áp dụng hình phạt. Tòa án lựa chọn loại hình phạt phù hợp với mức hình phạt cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự để áp dụng cho người phạm tội.

Quyết định hình phạt là là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt được các mục đích của hình phạt: cải tạo và giáo dục người bị kết án trở thành người có ích cho xã hội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung (Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999). Ngược lại, quyết định một hình phạt

không đúng pháp luật, không công bằng và không hợp lý thì không thể có khả năng đạt được các mục đích đó. Do đó, việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội có đạt được mục đích hay không, hiệu quả của hình phạt đạt được ở mức độ cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định hình phạt. Nếu tòa án coi nhẹ mặt giáo dục, cải tạo, xem hình phạt như là phương tiện chủ yếu để trừng trị người phạm tội thì sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nặng. Trong trường hợp này, người phạm tội luôn luôn mang tư tưởng phải chịu một hình phạt không phù hợp với hậu quả do hành vi phạm tội của mình, gây ra oán hờn và không tin tưởng đối với các cơ quan xét xử và thi hành. Một hình phạt như vậy không thể tạo ra tiền đề và điều kiện thuận lợi cho người phạm tội được cải tạo, giáo dục để hoàn lương trở thành công dân có ích cho xã hội. Còn một hình phạt quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, đồng thời nảy sinh ở chính người phạm tội và những người khác có thái độ coi thường pháp luật ; không tạo ra sự tin tưởng, đồng tình cần thiết để giáo dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Do vậy, quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn rất quan trọng, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự do thẩm phán và hội thẩm tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý nhất định. Nó còn là một dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình sự, bởi vì để quyết định hình phạt, tòa án phải dựa vào kết quả của các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau như kết quả hoạt động điều tra, truy tố… và kết quả hoạt động của mình ở giai đoạn xét xử để xác định một loại và một mức hình phạt cụ thể tối ưu nhất trong việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Loại và mức hình phạt được quyết định áp dụng đối với bị cáo phải được thể hiện trong bản án buộc tội theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và được công bố một cách công khai khi tuyên án.

Hình phạt do tòa án quyết định tùy thuộc vào các tình tiết cụ thể của vụ án có thể là nghiêm khắc, ít nghiêm khắc hoặc nhẹ nhưng trong mọi trường hợp bao giờ cũng phải bảo đảm đúng pháp luật, công bằng và cá thể hóa. Điều đó có nghĩa, để bảo đảm sự tương xứng khi quyết định hình phạt phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, cân nhắc nhân thân người phạm tội, cân nhắc các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, hình phạt được quyết định đối với bị cáo phải bảo đảm tính xác định, tính lập luận và bắt buộc có lý do.

Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng, một nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc tòa án căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án để lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật theo một thủ tục nhất định áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội.

Ngay từ thời kỳ phong kiến, quyết định hình phạt trong đồng phạm đã được đề cập tới. Điều 35 Bộ luật Hồng Đức quy định: "Nhiều người cùng phạm một tội thì lấy người khởi xướng làm đầu, người a tòng được giảm một bậc". Trong trường hợp này, chính phạm vừa là thủ phạm thực tế, vừa là thủ phạm tinh thần vì vậy bị phạt nặng hơn cả. Cũng theo Bộ luật Hồng Đức, người chủ mưu hay thủ phạm về tinh thần thì bị xử ngang bằng với người thủ phạm. Trong một số trường hợp nhất định, người chủ mưu còn bị xử lý nặng hơn người khác (ví dụ Điều 103). Tuy còn ở mức sơ lược, nhưng Bộ luật Hồng Đức đã phân hóa đường lối xử lý với những người đồng phạm. Xét ở thời điểm lịch sử, thì có thể nói đây là tiến bộ lớn nhất của Bộ luật Hồng Đức.

Dưới thời Pháp thuộc, chế định quyết định hình phạt trong đồng phạm được quy định khác nhau ở hai bộ luật của Nam Kỳ và Trung Kỳ. Tại Nam Kỳ, Bộ hình luật Canh Cải năm 1912 không phân loại mức độ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm. Trách nhiệm hình sự của những người tòng phạm cũng giống như của người chính phạm. Người chính phạm chịu

hình phạt nào thì người tòng phạm chịu hình phạt ấy. Tại Điều 59 Bộ luật Canh Cải quy định: "Các người tòng phạm trọng tội hay khinh tội đều bị phạt đồng hình với người chính phạm trừ khi luật quy định khác". Như vậy, Hình luật canh cải đã không cá thể hóa hình phạt đối với những người đồng phạm. Hình phạt áp dụng cho những người đồng phạm có tính chất "cào bằng", không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của từng người đồng phạm.

Theo Bộ hình luật Trung Kỳ 1933 tại Trung Kỳ đã có sự phân hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm nhưng còn ở mức đơn giản. Người chính phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn người tòng phạm. Tại Điều 68 Hình luật Trung Kỳ quy định: Khi nào nhiều người đồng can một tội đại hình hoặc trừng trị mà xét rò là đúng tội thời chiểu theo hướng lệ, quan tòa án phải xét trong những người ấy hoặc một người hoặc nhiều người là chính yếu phạm mà theo tội danh chính yếu phạm còn những người khác thời cho là tùng phạm mà nghĩ xử tội bằng phân nửa tội người chánh yếu phạm trừ ra khi nào luật có quy định riêng ra.

Cách mạng tháng 8 thành công, thời gian đầu sau khi giành được chính quyền, các Tòa án tiến hành quyết định hình phạt trong đồng phạm theo nguyên tắc: "Người tòng phạm hoặc oa trữ những tang vật của các tội phạm cũng bị xử phạt như chính phạm" [40]. Nguyên tắc nói trên có hạn chế là không phân hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm. Người tòng phạm cũng bị xử lý giống người chính phạm mặc dù tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau.

Miền Bắc được giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ở miền bắc, các văn bản pháp luật hình sự được ban hành thời kỳ này có sự phát triển hơn hẳn so với những văn bản pháp luật hình sự trước đó. Việc quy định chế định quyết định hình

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 28/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí