đối hẹp, sự giao lưu học hỏi với các nước trên thế giới chưa mang tính chuyên nghiệp. Sự liên kết giữa các vùng trong cả nước mang tính phụ cận, chưa bắt nhịp được với sự phát triển hiện đại của du lịch nói chung.
Tám là, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực du lịch mặc dù được chính quyền tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện, nhưng nhìn chung còn nhiều bất cập, hiệu quả mang lại không cao. Công tác xử lý sau kiểm tra, thanh tra từng lúc, từng nơi chưa dứt khoát, còn để kéo dài, việc tố cáo, khiếu nại trong lĩnh vực du lịch còn diễn biến phức tạp. Thực trạng công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động đối với các doanh nghiệp còn những khó khăn nhất định, bởi nhiều doanh nghiệp đăng ký kinh doanh nhưng không mở văn phòng, không có địa chỉ cụ thể nên không nắm được số lượng doanh nghiệp thực hoạt động là bao nhiêu. Việc kiểm tra, thanh tra các cơ sở kinh doanh, ăn uống, lưu trú tuy được đẩy mạnh nhưng hiệu quả chưa cao. Các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống với mức giá quá cao vẫn hoạt động, gây ra những hậu quả không hay cho ngành du lịch của tỉnh.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh Quảng Ninh, chủ yếu do các nguyên nhân sau:
- Nền kinh tế nước ta phát triển chưa cao, trình độ khoa học – công nghệ còn rất hạn chế. Đây là một thách thức đặc biệt lớn đối với hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước về kinh tế nói chung và hoạt động du lịch nói riêng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ chế, chính sách, pháp luật chung liên quan đến phát triển kinh tế nói chung và phát triển du lịch nói riêng có mặt chậm sửa đổi, chưa đồng bộ, thiếu nhất quán và thiếu thông thoáng; việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Du lịch còn chậm, chưa kịp thời, gây khó khăn cho hoạt động quản lý nhà nước về du lịch ở các địa phương. Mặt khác, du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên
vùng và xã hội hóa cao. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch liên quan
đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Một số cấp ủy đảng và chính quyền trong tỉnh chưa coi trọng và quan tâm đúng mực đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn. Nhận thức về vị trí của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh còn hạn chế, nên nhiều nơi, nhiều đơn vị trong tỉnh còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại, chưa năng động, sáng tạo, chưa quan tâm, tạo môi trường thuận lợi cho du lịch phát triển, chưa chú trọng huy động các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch.
Có thể bạn quan tâm!
- Đào Tạo, Bồi Dưỡng Nguồn Nhân Lực Ngành Du Lịch Trên Địa Bàn Tỉnh
- Hợp Tác Quốc Tế Và Khu Vực Trong Lĩnh Vực Du Lịch
- Những Hạn Chế Trong Quản Lý Nhà Nước Về Du Lịch Trên Địa Bàn Tỉnh
- Phương Hướng Hoàn Thiện Quản Lý Nhà Nước Đối Với Du Lịch Trên Địa
- Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh - 14
- Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh - 15
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
- Nội dung, phương thức và phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật du lịch cho cộng đồng dân cư trên địa bàn còn nghèo nàn, đơn điệu và chưa phù hợp với điều kiện thực tế ở tỉnh.
- Chúng ta đã xác định chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển du lịch dài hạn trong giai đoạn 2012 – 2020. Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện, quy hoạch trên vẫn còn bộc lộ nhưng nhược điểm nhất định. Nhìn từ phía QLNN thì khuyết điểm lớn nhất là du lịch Quảng Ninh về cơ bản vẫn mang nặng tính thụ động, chờ khách đến, chưa chủ động vươn ra thị trường, gắn bó với thị trường. Mối quan hệ phối hợp trong quản lý quy hoạch du lịch giữa các cơ quan, ban, ngành trong tỉnh có mặt thiếu chặt chẽ.
- Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch thay đổi quá nhanh do sát nhập, chia tách nhiều lần, thiếu tính ổn định nên không đảm báo tính liên tục trong quản lý, hiệu lực quản lý chưa cao, nhất là bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Quyền hạn, trách nhiệm cũng như lợi ích của các cấp, ngành trong việc cụ thể hóa các cơ chế, chính sách của Nhà nước về phát triển du lịch vào điều kiện cụ thể của địa phương cũng như trong việc ban hành cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền và trong việc hướng dẫn, tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách đó chưa được làm rõ. Sự
phối kết hợp trong quản lý hoạt động du lịch giữa các cơ quan chức năng của tỉnh chưa thực sự chặt chẽ trong khi đó lại chưa phân định một cách rõ ràng trách nhiệm và lợi ích của các cấp, các ngành và cộng đồng dân cư trong quản lý các hoạt động du lịch tại các khu, điểm du lịch.
- Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành du lịch còn nhiều bất cập. Công tác quản lý cán bộ, quy hoạch đào tạo, sử dụng cán bộ quản lý nhà nước về du lịch của tỉnh, nhất là đội ngũ cán bộ kế cận, tuy có được quan tâm nhưng chưa thường xuyên. Bên cạnh đó, các chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ cán bộ, chính sách thu hút nhân tài chậm được ban hành hoặc chưa được chú trong thực hiện. Việc đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch còn chắp vá, thiếu hệ thống. Mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo nghề du lịch và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch phát triển nguồn nhân lực chưa chặt chẽ.
- Cơ chế quản lý có liên quan đến khách du lịch của các bộ, ngành có những điểm chưa thống nhất, còn mang tính chất riêng biệt của ngành. Doanh nghiệp không tự giác chấp hành quy định của nhà nước đối với ngành nghề kinh doanh. Phần lớn tư tưởng kinh doanh mang tính chộp dựt vì lợi ích cục bộ trước mắt; thiếu tính chuyên nghiệp và tầm nhìn lâu dài.
- Việc quảng bá, tuyên truyền, xúc tiến du lịch chưa được quan tâm đầy đủ và đầu tư đúng mức để phát huy hết những thế mạnh tiềm năng phát triển của tỉnh. Sản phẩm tuyên truyền, quảng bá du lịch còn nghèo nàn, đơn điệu; hình thức quảng bá kém hấp dẫn, gây ra sự chồng chéo và phiền hà cho các doanh nghiệp. Công tác tạo sự liên kết, hợp tác trong phát triển du lịch và xây dựng hệ thống đảm bảo thông tin du lịch chưa được các cấp chính quyền quan tâm, đầu tư phát triển.
- Phạm vi thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch chưa được xác định rõ ràng. Phương thức, trình tự thanh tra, kiểm tra bộc lộ
nhiều hạn chế, chưa tạo được sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, gây ra sự chồng chéo và phiền hà cho các doanh nghiệp. Công tác kiểm tra, phối kết hợp quản lý cho các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch chưa toàn diện, chặt chẽ, chưa theo kịp với thực tế phát sinh.
*) Tiểu kết chương 2
Chương 2 của Luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 – 2015. Đây là giai đoạn ngành du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch Quảng Ninh nói riêng có bước phát triển mạnh mẽ. Chương 2 đã giải quyết những vấn đề cụ thể sau đây:
- Giới thiệu khái quát về tình hình kinh tế - xã hội, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của Quảng Ninh.
- Phân tích thực trạng QLNN về du lịch trên địa bàn tỉnh, trong đó tập trung các nội dung:
+ Tình hình hoạt động du lịch của Quảng Ninh những năm qua;
+ Phân tích thực trạng QLNN về định hướng phát triển du lịch, bao gồm: việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch; việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách về phát triển du lịch; về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch; về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phát triển du lịch; quản lý việc hoạt động kinh doanh du lịch; việc quảng bá, xúc tiến và đầu tư, hợp tác phát triển du lịch; về thanh tra, kiểm tra trong quản lý nhà nước về du lịch.
+ Qua thực trạng về quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh, đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực trạng đó: nêu lên những kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn tại và qua đó nêu nguyên nhân của những hạn chế đó. Qua phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về du lịch tỉnh Quảng Ninh, ngành du lịch của tỉnh đã thực sự lớn mạnh, dần từng bước nâng cao hoạt động,
xứng đáng là trung tâm du lịch lớn của cả nước và khu vực. Từ đó làm cơ sở cho nghiên cứu để tìm ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện việc QLNN về du lịch của tỉnh Quảng Ninh, nhằm đưa du lịch Quảng Ninh trở thành ngành kinh tế động lực.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Dự báo phát triển ngành du lịch
Trước tình hình bất ổn, kinh tế khó khăn kéo dài nhưng hầu hết các quốc gia và khu vực trên thế giới đều có những biện pháp tích cực, đưa ra những gói kích cầu hiệu quả, nhằm khôi phục lại nền kinh tế toàn thế giới. Mặc dù tình hình kinh tế chỉ mới đang dần hồi phục, song nhu cầu về du lịch rất phổ biến. Theo nghiên cứu của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) cho hay lượng du khách quốc tế năm 2015 vừa qua đã đạt hơn 1 tỷ lượt người, tăng hơn 4% so với năm trước đó. So với năm 2014, lượng khách chu du ra nước ngoài (có nghỉ qua đêm) tăng hơn 50 triệu lượt người. Năm 2015 cũng là năm thứ sáu liên tiếp lượng khách du lịch quốc tế đạt mức tăng trưởng hàng năm từ 4% trở lên. Pháp tiếp tục là điểm đến hấp dẫn khách du lịch nhất thế giới, tiếp theo là Mỹ, Tây Ban Nha, và Trung Quốc. Du lịch quốc tế trong năm 2015 đã tiến triển đến một tầm cao mới, thể hiện rõ vai trò của ngành đang đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm cho nhiều người ở khắp nơi trên thế giới. Các quốc gia cần tăng cường chính sách để thúc đẩy ngành du lịch tiếp tục tăng trưởng, bao gồm tăng cường tính bền vững trong hoạt động du lịch và phát triển nguồn nhân lực, tạo điều kiện đi lại thuận lợi. Nhìn chung, nhu cầu du lịch quốc tế tăng mạnh dù kết quả có thể khác nhau tại từng điểm đến, do những biến động của tỷ giá hối đoái, giá dầu và các mặt hàng khác sụt giảm giúp thu nhập của người dân tại các quốc gia nhập khẩu tăng nhưng lại làm giảm nhu cầu xuất khẩu, đồng thời dấy lên các mối lo ngại về an toàn, an ninh. Xét theo khu vực, trong năm 2015, châu Âu, châu Mỹ và châu Á-Thái Bình Dương đều đạt ngưỡng tăng trưởng 5%. Các điểm đến ở
Trung Đông tăng 3%, dữ liệu khách quốc tế của châu Phi bị giới hạn nên số liệu sẵn có ước tính khu vực này giảm 3%, kết quả này chủ yếu do sự yếu kém của ngành du lịch khu vực Bắc Phi vốn chiếm tới 1/3 lượt khách đến cả khu vực. Chi tiêu của các thị trường như Nga và Brazil trước đây vốn rất hào phóng nhưng hiện tại đã giảm đáng kể do nền kinh tế của các quốc gia này đang gặp khó khăn cũng như sự mất giá của đồng ruble và đồng real so với các ngoại tệ khác. Theo nhận định chung của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), trong thời gian tới, du lịch tiếp tục tăng trưởng trên phạm vi toàn cầu. Tăng trưởng du khách quốc tế trong năm 2016 cũng sẽ ở mức 4%. Lượng khách quốc tế năm 2020 đạt khoảng 1,6 tỷ năm 2020 và khoảng 1,8 tỷ năm 2030. Dự báo năm 2030, khách du lịch đi với mục đích thăm viếng, sức khỏe và tôn giáo sẽ chiếm 31% tổng lượng khách du lịch quốc tế; với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, vui chơi, giải trí chiếm 54%; và với mục đích công việc và nghề nghiệp chiếm 15%.
Bên cạnh việc khuyến khích như cầu du lịch, các nước đều coi du lịch là một ngành công nghiệp không khói, là một ngành kinh tế mũi nhọn, có chiến lược đưa du lịch thành một ngành công nghiệp hàng đầu. Không chỉ ở những nước phát triển mà cả những nước đang phát triển và kém phát triển đã nhận thức rõ vai trò to lớn và tầm quan trọng của du lịch. Vì vậy mà trên thế giới hiện nay, việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ và nhanh chóng thông qua việc áp dụng những thành tựu của khoa học – kỹ thuật và công nghệ thông tin. Sự phát triển của công nghệ thông tin được đánh giá là đã làm thay đổi phương thức tiếp cận và chia sẻ thông tin của khách du lịch, đặc biệt là ảnh hưởng của mạng xã hội và các ứng dụng trên internet, điện thoại di động ngày càng phổ biến, đòi hỏi cơ quan quản lý các điểm đến phải thay đổi phương thức xúc tiến quảng bá và định hướng thị trường. Cũng nhờ việc ứng dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật và công nghệ mà du
lịch đã được khu vực hóa, quốc tế hóa trên toàn cầu. Các tour du lịch giữa các nước gắn kết với nhau đáp ứng nhu cầu du lịch nhiều nước trong một chuyến hành trình của khách, sảm phẩm du lịch được quốc tế hóa.
Chính sách mở cửa quốc tế, đơn giản hóa thủ tục nhập cảnh là xu hướng chung trên thế giới trong những năm vừa qua. Theo Báo cáo về mức độ mở cửa liên quan đến thị thực nhập cảnh, tỷ lệ khách du lịch quốc tế cần thị thực nhập cảnh vào điểm đến quy mô toàn thế giới đã giảm từ 77% năm 2008 xuống còn 61% năm 2015.
Một trong những giải pháp chính được Liên hợp quốc đưa ra là ưu tiên các kế hoạch trung hạn và khuyến khích tiêu dùng trong nước. Đối với du lịch, trong bối cảnh kinh tế giảm sút, người dân có dấu hiệu giảm nhu cầu đi du lịch nước ngoài hoặc những nơi có khoảng cách xa, PATA và UNWTO khuyến nghị các nước nên quan tâm hơn tới du lịch trong nước để duy trì và đóng góp vào sự phục hồi kinh tế, xã hội.
Hướng đi của khách quốc tế có sự thay đổi. Nếu như những năm cuối thế kỷ XX, nguồn khách tập trung vào các nước thuộc Châu Âu và Mỹ thì sang những năm thế kỷ XXI, khách du lịch tìm đến những nước đang phát triển thuộc Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có các nước thuộc ASEAN. UNWTO dự báo khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ tăng mạnh nhất với mức tăng là 4-5%.
Việc lựa chọn các loại hình du lịch của khách du lịch quốc tế cũng thay đổi. Theo nhiều tổ chức nghiên cứu du lịch quốc tế, xu hướng nổi bật của ngành du lịch thế giới trong năm 2016 là du lịch trên sông, các điểm đến vùng Bắc Âu, du lịch mạo hiểm...Trong đó, các nhà tổ chức du lịch đặc biệt quan tâm đến loại hình du lịch theo chủ đề, du lịch đơn lẻ và du thuyền trên sông. Bên cạnh đó, một hình thức du lịch khác cũng trở thành xu hướng mới với 60% du khách có độ tuổi từ 22-42 tuổi thích sử dụng dịch vụ chia sẻ với